Đền Mẫu Đồng Đăng ở Lạng Sơn
Đền Mẫu Đồng Đăng còn có tên “Đồng Đăng linh tự”, nằm ở gần chợ Đồng Đăng thuộc trung tâm thị trấn Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn.
Nằm ở vùng cửa ngõ phía Bắc của Tổ quốc, nơi dãy núi hùng vĩ chạy dài sát biên giới với Trung Quốc, Đền Mẫu Đồng Đăng hiện lên như một điểm linh tự uy nghi giữa đất trời xứ Lạng. Từ cửa khẩu Hữu Nghị chỉ khoảng 4km, du khách đã có thể cảm nhận không khí trầm mặc, linh thiêng đặc trưng của vùng biên ải – nơi từ lâu được xem là “phên dậu” gìn giữ bình yên cho đất nước.
Đền không chỉ nổi tiếng bởi quy mô lớn và vẻ cổ kính, mà còn bởi giá trị tâm linh sâu sắc gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu – một trong những di sản tinh thần đặc sắc của người Việt. Mỗi năm, hàng vạn du khách thập phương tìm về đây để dâng hương, cầu mong bình an, may mắn, gia đạo thuận hòa và cuộc sống được chư vị chở che. Trong hành trình khám phá du lịch tâm linh tại Lạng Sơn, Đền Mẫu Đồng Đăng từ lâu đã trở thành điểm dừng chân không thể thiếu, vừa thanh tịnh, vừa thiêng liêng, để mỗi người tìm lại sự an yên trong tâm hồn.
Xem thêm: Đền Mẫu Đông Cuông ở đâu Yên Bái?
Đền Mẫu Đồng Đăng thờ ai?
Đền Mẫu Đồng Đăng từ lâu được biết đến là một trong những ngôi linh tự quan trọng bậc nhất của xứ Lạng. Trải qua bao biến thiên lịch sử, ngôi đền đã nhiều lần được tu sửa, mở rộng, để rồi ngày nay hiện lên với dáng vẻ khang trang, bề thế nhưng vẫn giữ được nét cổ kính trầm mặc đặc trưng của vùng biên ải.
Bước qua cổng đền, du khách như lạc vào một không gian linh thiêng được quy hoạch hài hòa, uy nghi. Từ sân đền rộng mở, những bậc tam cấp dẫn lên hệ thống thờ tự gồm năm gian được sắp đặt theo trật tự chặt chẽ, phản ánh triết lý tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ở vị trí sâu nhất là gian Tam Bảo – nơi ánh sáng hương án lung linh chiếu lên tượng Phật Chuẩn Đề và Phật Bà Quan Âm Bồ Tát, tạo nên cảm giác thanh tịnh và từ bi.
Tiến ra phía ngoài, gian thờ Tam Tòa Thánh Mẫu hiện lên với sự trang nghiêm đặc biệt. Hình ảnh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên, Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn và Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ được bài trí cân đối, tượng trưng cho ba cõi trời – rừng – nước, hòa quyện thành một chỉnh thể thiêng liêng bao trùm toàn bộ khu vực thờ tự.
Bên phải chính điện là không gian Sơn Trang. Tại đây, Chúa Thượng Ngàn ngự giữa, hai bên là Chầu Mười Đồng Mỏ và Chầu Chín, tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên núi rừng Đông Bắc, nơi các vị thánh linh được nhân dân tôn kính qua bao thế hệ. Đối diện, bên trái đền là gian thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai, bên cạnh đó còn là khu thờ quan Trần Triều Đức Đại Vương và các Thánh Cô, Thánh Cậu, khiến khuôn viên đền trở nên phong phú, đa dạng trong sắc thái tín ngưỡng.
Chính điện – trái tim của toàn bộ đền Mẫu Đồng Đăng – là nơi thờ Chúa Liễu, vị Thánh Mẫu linh thiêng bậc nhất trong Tứ Bất Tử. Hai bên chính điện là Chầu Bơ và Chầu Lục, càng làm nổi bật không gian thờ tự rực rỡ mà trang nghiêm. Đây cũng chính là nơi gắn liền với thần tích nổi tiếng về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Liễu Hạnh và danh sĩ Phùng Khắc Khoan khi ông hồi hương sau chuyến đi sứ phương Bắc, một câu chuyện vẫn được người dân truyền tụng như minh chứng cho sự linh ứng nhiệm màu của đền.
Tất cả các gian thờ được liên kết uyển chuyển, tạo thành một tổng thể hài hòa giữa kiến trúc, tín ngưỡng và cảnh quan. Nhờ vậy, bất cứ ai đặt chân lên bậc thềm đền Mẫu Đồng Đăng cũng đều cảm nhận được không chỉ sự linh thiêng mà còn cả chiều sâu văn hóa đã được hun đúc qua nhiều thế kỷ.
Câu chuyện Mẫu Liễu Hạnh gặp gỡ Phùng Khắc Khoan
Tương truyền rằng Liễu Hạnh – vị Thánh Mẫu được tôn xưng trong Tứ Bất Tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam – chính là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế, mang danh hiệu Quỳnh Hoa Công chúa. Vì một lần đánh rơi chén ngọc trong buổi tiệc bàn đào trên Thiên đình, nàng bị giáng xuống trần gian để trải nghiệm đủ mùi hỉ – nộ – ái – ố của cõi người. Hết hạn lưu đày, nàng được trở về trời nhưng trong lòng vẫn còn nhiều duyên nợ với nhân gian, nên thường xuyên hóa thân, hiển hiện để cứu độ dân lành, trừ tà diệt quái và cảm hóa lòng người.
Trong một lần ngao du xuống cõi thế, Chúa Liễu dừng chân nơi miền biên ải Lạng Sơn – vùng đất núi non trùng điệp, khí thiêng tụ hội. Bà nhìn thấy một ngôi chùa cổ nằm trên vị thế rất đẹp: tựa lưng vào núi đá, phía trước là khoảng thung lũng thoáng rộng như mở ra đón ánh ban mai. Vậy nhưng ngôi chùa lại hoang phế, rêu phong bám đầy, cỏ mọc kín lối, tượng pháp và bia đá phủ một lớp bụi dày, hầu như chẳng có bóng người lai vãng. Với tấm lòng từ bi và sự cảm thông sâu sắc đối với sự lãng quên của thời gian, Chúa Liễu nảy lòng thương cảm.
Bà khoác lên mình dáng vẻ của một thiếu nữ tuyệt sắc, nương thân dưới gốc thông già bên sườn núi, thả hồn cùng tiếng đàn réo rắt. Lời ca vang lên giữa núi rừng, khi thì tha thiết như suối nguồn, lúc lại ngân vang như gió lộng, ngợi ca vẻ đẹp non xanh nước biếc và tâm sự nỗi lòng của người mang mệnh tiên phải chu du giữa cõi trần thế.
Đúng lúc ấy, đoàn người của Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan – nhà ngoại giao kiệt xuất của triều Lê – đang trên đường trở về sau chuyến đi sứ phương Bắc. Danh tiếng của ông vang dội cả hai nước, không chỉ bởi tài văn chương mà còn bởi sự mưu trí, khéo léo trong ứng đối khiến triều đình nhà Minh phải kính nể. Khi đến gần ngôi chùa hoang, ông nghe thấy tiếng hát trong vắt xen lẫn tiếng đàn du dương vọng xuống từ núi cao, cảm thấy lạ lùng nên dừng chân ghé lại.
Trước mắt ông hiện ra hình bóng thiếu nữ thanh tú với phong thái thanh cao khác thường. Hai người đem lòng mến mộ tài học của nhau nên liền đối thơ, bình văn. Thiếu nữ dùng những vần thơ chan chứa nỗi niềm để gợi ý về sự hoang tàn của ngôi chùa và công đức của việc tu bổ một nơi thờ Phật giữa chốn núi rừng lặng lẽ. Còn Trạng Phùng, bằng trực giác của bậc đại nho, cảm nhận được phong thái phi phàm của nàng, nên càng kính trọng và lắng nghe.
Qua từng câu đối đáp, ông chợt nhận ra mình đang trò chuyện với không ai khác ngoài Liễu Hạnh Công chúa – vị Thánh Mẫu nổi danh linh ứng. Khi nàng nhẹ nhàng hóa bóng trong làn gió núi, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan càng thấu hiểu ý tứ mà Bà muốn gửi gắm.
Ngay ngày hôm sau, ông gọi các bô lão địa phương đến, trao tặng một khoản tiền lớn để tu sửa lại ngôi chùa. Trước khi rời đi, ông đề lên hành lang tấm bia một câu thơ hàm súc: “Tùng lâm tịch mịch phất nhân gia” – nghĩa là “Giữa rừng thông tĩnh lặng vẫn có cửa Phật an nhiên”. Câu thơ không chỉ ca ngợi cảnh đẹp nơi đây mà còn như lời nhắc nhở hậu thế hãy gìn giữ không gian linh thiêng này.
Từ lần hiển linh ấy, ngôi chùa được dần tôn tạo, trở thành điện thờ Mẫu trang nghiêm và là một trong những trung tâm tín ngưỡng quan trọng của vùng biên giới. Về sau, nơi đây được xây dựng, mở rộng và lấy tên là Đền Mẫu Đồng Đăng, ngôi đền nổi danh linh ứng bậc nhất xứ Lạng như ta thấy ngày nay.
Lễ hội đền Mẫu Đồng Đăng
Lễ hội Đền Mẫu Đồng Đăng là một trong những lễ hội tâm linh lớn nhất của Lạng Sơn, diễn ra hằng năm vào ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch. Từ lâu, ngày hội đã trở thành dịp để người dân khắp vùng Đông Bắc và du khách muôn phương tìm về cửa Mẫu, khởi đầu một năm mới bằng những lời nguyện cầu bình an, may mắn và sự che chở của các đấng linh thiêng. Mặc dù ngày chính hội là mùng 10, song từ mùng 1 Tết, dòng người hành hương đã tấp nập đổ về đền, tạo nên không khí linh thiêng nhưng không kém phần rộn ràng trong tiết trời đầu xuân biên ải.
Trong khoảnh khắc đất trời chuyển mình sang năm mới, lễ hội mở ra bằng những nghi thức truyền thống trang trọng. Tiếng trống hội vang lên giữa núi rừng, khói hương quyện với không khí se lạnh của mùa xuân xứ Lạng tạo cảm giác vừa thiêng liêng vừa ấm áp. Lễ rước Mẫu – một trong những nghi thức quan trọng nhất – được tổ chức long trọng với kiệu rước, cờ lọng, đội nhạc lễ truyền thống và đoàn người ăn mặc rực rỡ sắc màu. Từng bước chân rước kiệu như tái hiện lại hành trình hiển linh của Mẫu Liễu Hạnh nơi vùng biên viễn, đồng thời thể hiện lòng tôn kính đối với các bậc thần linh đã phù hộ cho cuộc sống bình yên của người dân.
Sau phần lễ là phần hội – khoảnh khắc mà cả vùng Đồng Đăng ngập tràn tiếng cười, tiếng trống và những hoạt động văn hóa dân gian đặc trưng. Trước đây, lễ hội còn được gọi là hội Lồng Tồng, nghĩa là “xuống đồng”, mang ý nghĩa cầu cho mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi. Dấu ấn nông nghiệp ấy vẫn còn in đậm trong nhiều hoạt động truyền thống như múa sư tử, múa lân – những màn biểu diễn rộn ràng tượng trưng cho sự xua đuổi tà khí và mang đến điều lành. Cùng với đó là các tiết mục võ dân tộc, thi đấu vật, đánh đu, ném còn, kéo co… khiến bầu không khí trở nên sôi động, thu hút đông đảo người lớn trẻ nhỏ.
Không thể thiếu trong lễ hội chính là những gian hàng ẩm thực – nơi du khách được thưởng thức hương vị đặc sản của xứ Lạng. Trong làn khói nghi ngút, mùi thơm của lợn quay, vịt quay quyện với khâu nhục béo mềm, phở chua thanh mát và những miếng mía ngọt lịm như gợi lại hương vị Tết quê mộc mạc mà đậm đà bản sắc. Chính những trải nghiệm ấy khiến mỗi người tìm về lễ hội không chỉ để cầu tài lộc mà còn để tận hưởng khoảnh khắc sum vầy giữa cộng đồng.
Điều làm lễ hội Đền Mẫu Đồng Đăng trở nên đặc biệt hơn cả chính là sự hòa quyện giữa tín ngưỡng thờ Mẫu – di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại – với đời sống tinh thần của người dân vùng biên giới. Lễ hội không chỉ là ngày hội cầu phúc, mà còn là dịp kết nối cộng đồng, tôn vinh bản sắc văn hóa và nhắc nhở thế hệ hôm nay trân trọng những giá trị thiêng liêng đã bền bỉ gìn giữ qua bao thế kỷ.
Nhờ vậy, mỗi độ xuân về, Đền Mẫu Đồng Đăng lại trở thành điểm hội tụ của niềm tin, lòng thành và khát vọng an yên – một hành trình văn hóa tâm linh mà bất cứ ai đến xứ Lạng cũng nên một lần trải nghiệm.
Dâng lễ Đền Mẫu Đồng Đăng
Đền Mẫu Đồng Đăng Lạng Sơn thờ chính là Phật và Thánh Mẫu. Bởi vậy, khi sắm lễ dâng đền cần lựa chọn những vật phẩm thích hợp. Mâm lễ không cần to nhưng phải đủ. Các bạn có thể sắm lễ chay hay lễ mặn tùy tâm. Lễ chay gồm hoa quả, trà, oản lễ,… Lễ mặn nên là đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả,…
Khi sắm cần chú ý:
– Dâng lễ Sơn Trang phải là đặc sản chay của Việt Nam. Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả.
– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Những lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bọc trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Dâng lễ Tam Tòa Thánh mẫu cần dâng cả 3 vị chứ không nên chỉ dâng 1 hay 2 vị.
Văn khấn đền Mẫu Đồng Đăng
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Con kính lạy Đức Hiệu Thiên chí tôn kim quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao Thượng đế.
Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con xin kính Cửu trùng Thanh Vân lục cung công chúa.
Con kính lạy Đức thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương Thánh Mẫu.
Con kính lạy Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
Con kính lạy Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, Tứ Vị Chầu Bà, năm tòa quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên cô, mười hai Thánh cậu, ngũ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng.
Hưởng tử (chúng) con là: ……………
Ngụ tại: …………….
Hôm nay là ngày ……. tháng …… năm ……
Hương tử con đến nơi đền Mẫu Đồng Đăng chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái, lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin các Ngài xót thương phù hộ độ trì cho gia chung chúng con sức khỏe dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !
Nam mô A Di Đà Phật !