Đức Phật nói về phụ nữ: Ai ngờ Ngài hiểu nữ giới tới chân tơ kẽ tóc
(Xemsomenh.com) Đức Phật, với trí tuệ vô biên và lòng từ bi bao la, luôn hiểu rõ những khổ đau, mâu thuẫn và khó khăn mà con người phải đối mặt trong cuộc sống. Trong quá trình hoằng dương đạo Phật, Ngài không chỉ truyền dạy về những giáo lý cao siêu mà còn thấu hiểu những khía cạnh sâu sắc trong mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giữa nam và nữ. Qua những câu chuyện và lời dạy của Phật, chúng ta không chỉ thấy một Đức Phật đầy tình thương và hiểu biết, mà còn nhận ra những bài học quý giá giúp mỗi người sống một cuộc đời hạnh phúc và thịnh vượng.
Dù Đức Phật có những lần tránh né phụ nữ trong cuộc đời hoằng hóa của mình, nhưng điều đó không phải vì Ngài thiếu tôn trọng hay xem nhẹ vai trò của phái đẹp. Thực tế, Ngài luôn nhận thức rõ sức mạnh và ảnh hưởng lớn lao của nữ giới, từ đó đưa ra những lời khuyên vô cùng sâu sắc để giúp phụ nữ tìm ra con đường sống hạnh phúc, bình an. Qua những lời dạy ấy, không chỉ phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng có thể học hỏi và áp dụng để xây dựng một cuộc sống tinh thần thịnh vượng, hòa hợp với mọi người xung quanh.
Một trong những lời dạy nổi bật của Đức Phật là về sự quyến rũ mạnh mẽ của phụ nữ, khi Ngài khẳng định rằng, không có gì trên đời có thể làm say đắm tâm trí đàn ông như hình sắc và sự quyến rũ của phụ nữ. Ngài cảnh báo rằng, dù là bậc hiền triết, cũng khó tránh khỏi sự dao động do sức hấp dẫn của nữ giới. Nhưng đồng thời, Ngài cũng không quên chỉ ra cách mà người phụ nữ có thể duy trì tâm hồn an nhiên và tìm được hạnh phúc bền vững qua việc rèn luyện chính bản thân và thực hành giáo lý của Phật.
Những lời Phật dạy về phụ nữ không chỉ giúp chúng ta hiểu được sức mạnh của tình yêu và sự quyến rũ mà còn là lời nhắc nhở về việc tu dưỡng tâm hồn, để từ đó tạo dựng một cuộc sống hạnh phúc, tự tại.
Đạo Phật mở đường cho cuộc đời của phụ nữ
Tuy rằng đôi khi Ngài cũng có nói đến những nhược điểm của phụ nữ nói chung nhưng đủ công minh để đưa ra lời ngợi khen tài năng và khả năng của nữ giới. Thậm chí, cho dù thời kỳ phong kiến và xã hội trước đây vô cùng kỳ thị và xem thường phụ nữ thì Đức Phật với tấm lòng bao dung luôn đón nhận họ như bất cứ chúng sinh khác, không phân biệt giới tính. Phật Giáo có thể được cho là ít kỳ thị nhất trong thái độ đối với phụ nữ và có thể nói Đức Phật là vị đạo sư đầu tiên cho phụ nữ cơ hội bình đẳng, giải phóng trong lãnh vực phát triển tinh thần.
Đức Phật đã làm được việc mà không tôn giáo nào ở thời kỳ đó làm được đó là mở cửa cho phụ nữ tham gia vào lãnh vực tôn giáo cho họ được nhập vào Đoàn thể Tỳ Kheo Ni, Đoàn Thể Ni Giới. Việc này mở rộng những con đường thênh thang của văn hóa, xã hội và những cơ hội về đời sống công cộng cho phụ nữ. Nó cũng dẫn đến công nhận hoàn toàn tầm quan trọng của phụ nữ trong xã hội, và làm như vậy nâng cao địa vị của người phụ nữ. Theo Phật Giáo, con trai không phải là cần thiết để người cha để được lên thiên đường, con gái cũng tốt như con trai, nếu được tự do sống một cuộc đời độc lập. Cho phụ nữ được tích cực chia sẻ hoạt động vào đời sống tôn giáo, Đức Phật đã giúp đỡ nâng cao địa vị phụ nữ trong đời sống thế tục.
Cho phép phụ nữ vào đời sống tôn giáo quả là quá tiến bộ trong thời ấy. Thời kỳ đầu Phật Giáo, con gái không lấy chồng, không bị ngược đãi. Người con gái đó có thể ở nhà săn sóc đầy đủ cha mẹ, các anh em chị em còn nhỏ hơn mình. Người con gái đó có quyền sở hữu tài sản to lớn.
Đức Phật không gán sự quan trọng vào việc sinh con trai. Trong một dịp Hoàng Đế Kosola đang cùng với Đức Phật, thì được tin báo một đứa con gái của Hoàng Đế được sinh ra. Mong mỏi một con trai, Hoàng Đế không vui. Nhận biết như vậy, Đức Phật đã ca ngợi phụ nữ, nêu cao những đức hạnh của người phụ nữ như sau:
Này nhân chủ ở đời
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
Có trí tuệ gới đức
Khiến nhạc mẫu thán phục
Rồi sinh được con trai
Là anh hùng quốc chủ
Người con trai như vậy
Của người vợ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo quốc cho toàn quốc *
(Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu – VNCPH VN ấn hành)
Đức Phật cho thấy rõ ràng phụ nữ có khả năng hiểu biết giáo lý của Ngài và có thể tu tập giáo lý này để đạt tinh thần ở mức độ nào đó. Điều này cho thấy rõ ràng do lời khuyên của Đức Phật cho nhiều phụ nữ vào nhiều dịp và hoàn cảnh khác nhau.
Ðạo Phật đã mở ra cánh cửa cho phép nữ giới tham gia đầy đủ tất cả các lĩnh vực của đạo giáo bằng cách làm cho họ có đủ tư cách, khả năng được phép gia nhập vào giáo hội Tỳ-kheo ni (Order of Nuns). Ðiều này đã mở ra một con đường mới, nền văn hóa xã hội và những cơ hội cho một cuộc sống phổ biến cho nữ giới. Nó giúp cho nữ giới nhận thức được tầm quan trong của họ trong xã hội và làm như vậy cũng nhằm nâng cao địa vị của nữ giới. Mặc dù có một vài lời phê phán châm chọc được viết trong tâm trang về những sự cám dỗ và thái độ của nữ giới, Ðức Phật cũng đề cập trong Kinh Tương Ưng rất nhiều đặc trưng bù đắp lại của họ. Người ta còn cho rằng trong một số trường hợp nào đó nữ giới được xem là thông thái hơn và sâu sắc hơn, thận trọng hơn nam giới. Và nữ giới cũng được xem có khả năng chứng đắc giác ngộ hay thánh quả sau khi tu tập Bát Chánh đạo. Mặc dầu có một số dường như có vẻ hơi khó chịu, thông qua sự quan sát cẩn thận chúng ta thấy rằng những gì Ðức Phật nói về nữ giới vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay.
Đức Phật hiểu những thiệt thòi của nữ giới
Phật Giáo không bao giờ đồng quan điểm với quan điểm Bà La Môn là con trai cần thiết cho người cha để lên thiên đường. Theo Đức Phật, mọi việc trên cuộc đời này tuân theo luật Nhân Quả, mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về hành động và hậu quả của chính ta. Hạnh phúc của cha hay ông không tùy thuộc vào hành động của người con hay người cháu. Mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về hành động của chính cá nhân ấy.
Đức Phật dạy trong kinh Tương Ưng Bộ, chương III, Tương Ưng Nữ Nhân: "Này các Tỷ-kheo, có năm đau khổ riêng biệt mà người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông"
1. Ở đây, này các Tỳ kheo, người đàn bà lúc trẻ tuổi đi đến nhà chồng, không có bà con. Đây là đau khổ riêng biệt thứ nhất, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải gánh chịu điều đó khác biệt với đàn ông.
Đức Phật cũng chỉ rõ những điều cản trở và bất lợi mà người đàn bà phải chịu. Chẳng hạn như gian nan và khổ cực lúc phải xa nhà vào ngày cưới để về nhà chồng và nỗi thương đau phải tự mình gánh chịu để thích nghi với môi trường mới đầy khó khăn và trở ngại.
2. Lại nữa, này các Tỳ kheo, người đàn bà có kinh nguyệt. Đây là đau khổ riêng biệt thứ hai, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Thêm vào đó là cái đau đớn và đau tâm sinh lý mà người đàn bà phải chịu đựng trong lúc kinh kỳ, mang thai và sanh nở. Tất cả những điều này tuy là những hiện tượng tự nhiên chỉ miêu tả những dị biệt bất lợi và hoàn cảnh xẩy ra giữa người đàn ông và người đàn bà.
3. Lại nữa, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải mang thai. Đây là sự đau khổ riêng biệt thứ ba, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
4. Lại nữa, này các Tỳ kheo, một người đàn bà phải sanh con. Đây là đau khổ riêng biệt thứ tư, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
5. Lại nữa, này các Tỳ kheo, người đàn bà hầu hạ đàn ông. Đây là đau khổ riêng biệt thứ năm, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.
Này các Tỳ kheo, đây là năm đau khổ riêng biệt, này các Tỳ kheo, người đàn bà phải gánh chịu, khác biệt với đàn ông.”
Lời dạy của Đức Phật về bản chất thực sự của cuộc sống và cái chết về nghiệp và về những nẻo luân hồi - đã thay đổi thái độ đối với phụ nữ trong thời kỳ đó. Điều này cũng đặc biệt như vậy đối với sự quan trọng lớn lao gắn với việc sinh con trai. Những gì Đức Phật nói về phụ nữ cho thấy Cho nên không có nguyên nhân nào cho người đàn bà lập gia đình phải lo âu chỉ vì không sinh được con trai để thi hành những nghi lễ cho tổ tiên. Điều này cũng có nghĩa con gái cũng tốt như con trai.
8 điều Người khuyên để phụ nữ tái sinh để sanh Thiên
Đức Phật nói về phụ nữ bằng cách nâng cao địa vị của họ trong xã hội nhưng Ngài cũng vẫn vạch ra những dị biệt vô cùng thực tiễn về xã hội và tâm lý hiện hữu giữa nam và nữ giới. Đức Phật cảm nhận an lạc và hòa hài trong gia đình ở một mức rộng lớn là do người đàn bà. Nhiều trường hợp này đã được miêu tả rõ ràng trong các Kinh Anguttara Nikaya và Samyutta Nikaya.
Về phần người chồng:
+ Người chồng phải trung thành, lịch sự và không khinh miệt.
+ Bổn phận người chồng là trao quyền cho người vợ;
+ Thỉnh thoảng cung cấp đồ trang sức cho vợ.
+ Người đàn ông phải cải tiến và ổn định kỹ năng và tài thủ công nghệ và chuyên cần vào công việc của mình.
+ Phải có khả năng tìm ra những phương tiện để duy trì và giữ vững gia đình.
+ Bổn phận người đàn ông là tìm kiếm kiến thức không bao giờ chấm dứt.
Mặt khác, bổn phận của phụ nữ:
+ Coi sóc nhà cửa và chồng.
+ Phục vụ cha mẹ chồng trong tình thương yêu như chính cha mẹ mình.
+ Phải trân trọng và kính nể thân quyến và bè bạn bên chồng như vậy bầu không khí thuận thảo và hạnh phúc sẽ được tạo nên trong gia đình khi mới về nhà chồng.
+ Phải tìm hiểu bản tính người chồng, xác định hoạt động, tính nết, tâm tính của chồng, và trở nên luôn luôn hữu ích và cộng tác khi mới về nhà chồng.
+ Nên lễ phép, tử tế và ý tứ trong sự giao tế với người làm.
+ Phải dành dụm tiền kiếm được của người chồng và phải biết sự chi tiêu trong gia đình cần được tính toán và duy trì. Đó là lời khuyên có giá trị vô tận của Đức Phật.
Một thời nọ, đức Phật trú tại Kosambi. Lúc bấy giờ, Tôn giả Anuruddha đang ngồi thiền định thì rất nhiều Thiên nữ đi đến thưa Tôn giả: Chúng tôi là những Thiên nữ với thân hình khả ái. Trên cả ba lĩnh vực, chúng tôi có quyền lực và tự tại. Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có hình sắc, tiếng hay và lạc thọ như thế nào thì ngay lập tức liền được hình sắc, tiếng hay và lạc thọ như thế ấy.
Rồi Tôn giả Anuruddha xuất thiền, đi đến đảnh lễ và bạch lại với Phật: Trong khi con tọa thiền, các Thiên nữ khả ái đi đến nói “chúng tôi có quyền lực và tự tại”. Bạch Thế Tôn, phải thành tựu bao nhiêu pháp thì nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung mới được sinh về ở chung với các Thiên nữ khả ái đó?
- Này Anuruddha, phải có đầy đủ tám pháp, thế nào là tám?
Ở đây:
1. Nữ nhân đối với chồng ngủ sau, dậy trước, vui vẻ với công việc, xử sự đẹp lòng, nói lời dễ thương;
2. Người chồng kính trọng Sa môn, Bà la môn thì nữ nhân ấy cũng kính trọng, cúng dường;
3. Phàm tất cả việc nhà phải thông thạo, phải biết phương pháp làm hay phải biết sắp đặt người làm;
4. Trong nhà người chồng, nếu có nô tỳ, nhân công thì nữ nhân phải biết quản lý, sắp xếp công việc và phải quan tâm đến đời sống của họ;
5. Tài sản chồng làm ra, nữ nhân phải biết gìn giữ, bảo vệ không để hao phí, mất mát;
6. Nữ nhân quy y Tam bảo;
7. Nữ nhân giữ gìn ngũ giới;
8. Nữ nhân sống với tâm rộng rãi, ưa thích bố thí.
Nếu thành tựu tám pháp này, nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sinh về ở chung với các Thiên nữ khả ái.”
Từ thực tế cuộc sống chúng ta dễ dàng nhận ra rằng, không phải khi nữ nhân thực hành 8 điều này thì phải đợi đến khi quá vãng mới được sinh thiên mà ngay trong đời sống hiện tại, họ cũng sẽ được hưởng hạnh phúc, an lành không khác gì ở cõi Thiên.