Các bước luận giải lá số tử vi trọn đời bạn nên biết
Tử Vi là một bộ môn kết hợp khoa học và tâm linh huyền bí, trong đó người luận giải lá số tử vi cần sử dụng khoa học, có nghĩa là phải có những bước cơ bản để luận giải, kết hợp với nhiều yếu tố hoàn cảnh, môi trường, tư duy linh hoạt mới có thể luận giải lá số tử vi được.
Nói tử vi là khoa học cũng không đúng vì ý nghĩa các sao trong khoa tử vi mang nhiều yếu tố của sự cố định, và nguồn gốc ra đời của một số sao không rõ dàng. Tất cả các ý nghĩa đều dựa vào kiến thức cơ bản và kinh nghiệm khi luận giải lá số tử vi.
Tử Vi là khoa học cũng đúng vì khi luận giải cần phải có trình độ, các bước, và sự nghi nhớ, cách luận theo một nguyên tắc riêng, theo đó mỗi người sẽ có phương pháp luận giải khác nhau. Dưới đây tôi xin gửi đến các bạn cách luận giải lá số số tử vi chuẩn từ a - z.
Các bước luận đoán lá số tử vi
Để luận đoán lá số tử vi được chính xác và tránh những sai lầm thì ta cần thực hiện theo các bước như sau:
- Quan sát và phân tích bố cục của toàn bộ lá số
- Quan sát, phân tích từng cung và xét sự phối hợp giữa các cung
- Phân tích ý nghĩa, vị trí miếu hãm của chính tính, trung tinh và phụ tinh
- Phân tích chi tiết đại vận, tiểu vận và của lá số
- Kiến thức tổng hợp để giải lá số tử vi.
- Kết luận.
1. Quan sát và phân tích bố cục của các cung và các sao
Ngay khi xem lá số quý vị đừng vội đưa ra nghiên cứu và phân tích những cung, những sao càng đừng vội Kết luận gì cả. Mà hãy quan sát lá số một cách tổng quát, sau đó mới nghiên cứu và phân tích bố cục tổng quan của những cung và những sao .
Đầu tiên phải xét các yếu tố sau
- Xét sự thuận nghịch lý về âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán.
- Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh
- Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục
- Xem phối hợp hai cung tam hợp với cung an Mệnh-Thân
- Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân
- Xem phối hợp cung xung chiếu với cung an Mệnh-Thân
- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số
- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số
- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số
Sau đó phân tích tiếp
- Thế đứng của các chính tinh: Sao nào đi với sao nào để thành cặp, vị trí của các cặp sao Âm Dương, Tử Phủ, Thất Sát, sao chủ mệnh. Miếu, hãm của các chính tinh.
- Thế đứng của các cung: Cung Mệnh, Tài bạch, Quan Lộc… nằm ở đâu?
- Quan sát bố cục của các trung tinh, phụ tinh: Trung tinh gồm các sao như: Khôi Việt Tả Hữu Tứ Hoá, Xương Khúc, Thanh Long, Quang Quý, Thiên Hình Thái Tuế, Kiếp sát, Lộc tồn, Lục sát ( Kình Đà Linh Hoả Không Kiếp), Thiên Mã. Tuy nói là trung tinh, nhưng nhiều khi nó quyết định cục diện của lá số còn mạnh hơn cả chính tinh.
- Kế đó phải kể tới vòng Trường sinh, rồi Khốc Hư, Tang Hổ, và các sao chỉ bộ phận trong cơ thể để đoán biết về đặc điểm ngoại hình, bệnh tật.
Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:
- Điểm nổi bật nhất của lá số: Mấu chốt nằm ở cung nào, sao nào, cách cục nào
- Chỗ tốt ở đâu, chỗ xấu ở đâu. Các ưu điểm và nhược điểm của lá số
- Mức độ tốt xấu của từng yếu tố như: Mức độ thành công về sự nghiệp, mức độ hạnh phúc trong gia đình…Nếu không nhận biết được mức độ thì không thể có kết luận khi giải số.
2. Xem, phân tích từng cung và xét sự phối hợp giữa các cung
Xem và phân tích từng cung
Chúng ta sẽ đi xem và nghiên cứu và phân tích từng cung một với ưu tiên những cung cường trước theo thứ tự như sau :
- Nam: Mệnh, Thân, Phúc, Quan, Tài, Di, Thê
- Nữ: Mệnh, Thân, Phúc, Phu, Tài, Tử
Lưu ý:
- Khi xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến bản thân mình là: Quan lộc – Tài bạch – Tật ách – Thiên di – Điền trạch – Nô bộc.
- Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến lục thân như: Phu Thê – Tử tức – Phụ mẫu – Huynh đệ
Xem và phân tích sao của từng cung
- Xem tổng hợp bộ cách của Chính tinh và các trung tinh tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức để biết tổng quát lá số của mình được các cách gì.
- Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.
- Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung Mệnh-Thân.
- Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số.
- Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức.
- Xét tới giá trị và ảnh hưởng biến đổi của các sao theo thời gian của mệnh số.
- Xem sự liên đới của các sao với nhau, nếu các sao này kết hợp thành cách cục hay bộ cách thì sẽ có tác dụng mạnh mẽ hơn là đóng đơn lẽ hay lạc lỏng.
Lưu ý:
- Nếu muốn xem cung nào thì phải phối hợp ý nghĩa, đặc tính và đặc điểm của các sao tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung đó, quân bình số lượng các sao rồi đúc kết các yếu tố lại để đưa ra lời lý giải kết luận về cung muốn xem.
- Phải tập xem phần giải đoán qua các lá số mẫu để biết cách lý giải lá số.
Tham khảo thêm 4 cặp Tam Hợp trong tử vi:
- Tỵ – Dậu – Sửu (Tam hợp tuổi này có hành KIM)
- Thân – Tý – Thìn (Tam hợp tuổi này có hành THỦY)
- Hợi – Mão – Mùi (Tam hợp tuổi này có hành Mộc)
- Dần- Ngọ – Tuất (Tam hợp tuổi này có hành Hỏa)
Trong đó:
- Tạm hợp Mệnh bị tam hợp Phu thê khắc thì sợ vợ hoặc sợ chồng
- Tam hợp Mệnh bị tam hợp Thiên di khắc thì ra ngoài bị thiệt thòi, thua thiệt
- Tam hợp Mệnh khắc tam hợp Thiên di thì ra ngoài được lợi, hay chiến thắng hoàn cảnh, vượt lên hoàn cảnh
- Tương tự xét các cặp tam hợp Mệnh với các cặp tam hợp khác như: Tam hợp Nô bộc, tam hợp Tật ách, tam hợp Tài bạch…. Nếu tam hợp mệnh Khắc tam hợp khác thì tốt nhất, bình hòa tốt nhì. Ngược lại bị khắc thì xấu, thường bị thua thiệt …
Ví dụ: Lá số có tam hợp mệnh tương sinh tam hợp cung phu thê
lá số tử vi có tam hợp Mệnh tương sinh tam hợp mệnh Phu thêỞ lá số trên ta có tam hợp cung Mệnh là mệnh Kim, tương sinh với tam hợp mệnh cung Phu thê là mệnh Thủy. Vì vậy ta đoán là người này tối thiểu là nể chồng, chiều và chăm chồng .Sở dĩ không có tam hợp hành Thổ vì trong 4 tam hợp trên đều có hành Thổ làm nền tảng để cho Tứ Sinh ( Dần-Thân-Tỵ-Hợi ) phát nguồn bồi đắp cho Tứ Chính ( Tý-Ngọ-Mão-Dậu ) được vừa đủ sung túc để trở thành những hành chính trong tam hợp .Theo Dịch học, hành Thổ là nguồn gốc phát xuất ra những hành khác, rồi tập trung chuyên sâu về lại nguồn cội TW, hành Thổ phối hợp với 4 hành Kim-Mộc-Thủy-Hỏa thành 4 cục diện, là thế tam hợp cơ bản của tử vi Đẩu Số .Nhận xét về bảng Tam Hợp dưới đây sẽ thấy trong mỗi cục diện gồm có 3 hành, tuy khác nhau nhưng cùng liên minh với nhau thành một hành chung, để cùng những cục diện khác tranh đua đổi khác sinh khắc lẫn nhau .Ngoài ra, theo cụ Việt Viêm Tử thì cần phải phân biệt đến hai chiều thuận nghịch theo quy lý âm khí và dương khí của tam hợp cục nữa .
Lấy ví dụ: Người có cung mệnh tại Ngọ trong tam hợp cục Dần-Ngọ-Tuất.
- Nếu là Dương Nam/ Âm Nữ khởi theo chiều thuận đi từ cung Dần đến cung Tuất nên những sao tam hợp đóng tại cung Dần sẽ ảnh hưởng nhiều hơn là những sao cùng tam hợp tại cung Tuất.
- Còn với người Âm Nam/ Dương Nữ theo chiều nghịch đi ngược lại từ cung Tuất đến cung Dần nên những sao tam hợp tại cung Tuất sẽ ảnh hưởng nặng hơn là những sao tại cung Dần.
Khái quát 12 cung trong lá số tử vi
1. Cung mệnh
Mệnh cung là chủ thể của cả lá số tử vi. Một số người cho rằng cung Phúc là quan trọng nhất, nhưng không phải vậy. Cung Mệnh mới là cái gốc để xét đoán mọi yếu tố trong lá số .
Khi quan sát cung Mệnh người ta xét các yếu tố sau:
- Vị trí của cung mệnh trên lá số: nằm ở cung nào trong số 12 cung từ Tí đến Hợi. Nhị hợp, tam hợp, xung chiếu, giáp các cung nào.
- Các sao đóng trong mệnh, chiếu hợp vào mệnh. Có xem xét cả miếu vượng của sao.
- Tương tác giữa các sao có ảnh hưởng, giữa sao với cung mệnh, giữa cung mệnh với bản mệnh ( gồm mệnh nạp âm, can chi tuổi).
Thông tin có được từ cung Mệnh:
- Cách cục chính của đương số
- Hình dáng, tính cách, tài năng
- Một phần sự thành công trong cuộc đời: về tiền tài địa vị hay hôn nhân, thậm chí cả con cái.
- Mối tương quan giữa bản thân đương số với thân nhân và với xã hội xung quanh.
Thế nào là một cung mệnh tốt?
Cung Mệnh tốt là một cung mệnh bộc lộ sự cường vượng, nhưng lại có sự hài hoà với những cung khác .
- Mệnh nam thì cần chỉ huy được các cung khác, thu hút được nguồn lực từ tam phương tứ chính.
- Mệnh nữ chủ yếu cần nhu thuận, giúp đỡ cho các cung khác đặc biệt là cung chồng và cung con, tức cung Phu và cung Tử.
Như vậy một cung Mệnh tốt thường sẽ có:
- Chi của cung hoà hợp với bản mệnh: Tương sinh hay bình hoà với mệnh là tốt. Đặc biệt nếu chi của Cung trùng với chi của tuổi thì rất tốt trong việc hỗ trợ cho những người mệnh yếu. Đây cũng thuộc quý cách.
- Sao chính tinh thủ mệnh được Miếu vượng, nếu ứng hợp với bản mệnh thì càng tốt.
- Cung mệnh hội tụ được các quý cách, phú cách. (Tham khảo các sách tử vi đã xuất bản).
Lưu ý : Vì cung mệnh có ảnh hưởng tác động tới nhiều cung khác trong lá số nên mệnh mà có Thất Sát thì thường có tính khắc với thân nhân .
2. Cung Phúc
Người ta thường coi cung Phúc là nói về họ hàng của đương số, và phúc phần của đương số .Tôi trong nghiên cứu và điều tra thấy rằng ý nghĩa về họ hàng không được đúng mực lắm. Vì trong một họ có người giàu người nghèo, người tốt kẻ xấu, chênh lệch đã rất nhiều. Anh em lá số còn khác nhau huống chi cả dòng họ .Ý hầu hết của cung Phúc là bộc lộ sự suôn sẻ, được che chở hay không.
Nếu một cung Phúc tốt thì đương số dễ gặp thuận tiện, an nhàn, được quý nhân trợ giúp. Phúc vì tam hợp với Phu Thê nên tất yếu có tác động ảnh hưởng quan trọng tới người chồng, người vợ. Ngoài ra cung Phúc còn có ý nghĩa tương hỗ để xem về con cháu và bản mệnh thọ yểu của chính đương số .Những sao đóng trong cung Phúc có ý nghĩa chỉ ra niềm hạnh phúc và phúc đức của đương số phụ thuộc vào vào điều gì. Như cung Phúc có Đào Hồng sinh vượng thì niềm hạnh phúc có được về tình duyên là rất đáng kể. Nếu Hoá Kỵ ở cung Phúc thì thường phải lao tâm khổ tứ, trắc trở tình duyên .
3. Cung Tài
Cung này chủ tiền tài và những yếu tố tương quan tới tài lộc của đương số. Nó không phải là cung duy nhất quyết định hành động giàu nghèo như nhiều người lầm tưởng .Nó cũng hoàn toàn có thể là một cung chỉ năng lực, năng lượng và việc làm. Bởi vì những thứ này đều tương quan ngặt nghèo tới tài lộc. Ý nghĩa tài bạch không chỉ là tiền, mà bao hàm cả năng lực, năng khiếu sở trường .
Cung Tài tốt thì nên có tài tinh như Vũ Khúc Thái Âm Song Lộc, Trù Riêu, Linh Hoả hợp cách …. Có hung tinh cũng hoàn toàn có thể tốt chứ không phải luôn luôn xấu, có điều hung tinh thì kiếm tiền hay dựng nghiệp sẽ khó khăn vất vả hơn người khác. Thêm những sao có tính tích trữ, che giấu thì thường là tốt hơn, vì lộ ra thì dễ bị tranh cạnh .Tài cung toàn sao tỏa nắng rực rỡ sáng sủa nhưng lại không có tài tinh, tài tinh trong lá số bị phá hãm, thì chỉ giàu vẻ bên ngoài mà thực ra nghèo, hay ít của chìm .
4. Cung Phu hay Thê
Cung này chỉ người hôn phối. lại chỉ cả đặc thù, tác dụng của mối quan hệ giữa đương số với người khác pháì .Cho nên một cung Phu Thê quá xấu thì kết hôn mấy lần vẫn chẳng được hài lòng. Còn cung Phu Thê tốt thì tuy vẫn hoàn toàn có thể hai lần kết hôn, nhưng đều lấy được người vừa lòng, cảm nhận được niềm hạnh phúc và thuận tiện trong hôn nhân gia đình .Cung Phu Thê không hề xem tách biệt mà phải tích hợp cùng cung mệnh, Nhật Nguyệt và những sao tình duyên để đoán. Tuy nhiên cung này đặc biệt quan trọng có ý nghĩa khi luận hạn, hay xác lập những điểm đặc biệt quan trọng, sự kiện đặc biệt quan trọng về người hôn phối, như năm kết hôn, v.v … .
Hôn nhân ngoài đời rất đa dạng, từ nguyên nhân và hoàn cảnh lấy nhau lẫn đời sống gia đình. Do vậy nếu nhìn một cung Phu Thê xấu cũng chưa đoán quyết được là bỏ nhau, hay sát phu sát thê. Có thể chỉ đơn giản là lúc kết hôn bị nhiều phản đối, chung sống đồng sàng dị mộng…. Người phụ nữ ngoại tình có thể là rất tồi tệ đối với người đàn ông này, nhưng lại là chấp nhận được trong mắt người đàn ông khác.
Cho nên ý nghĩa của cung Phu Thê biến chuyển linh hoạt, tuỳ vào phối hợp trong lá số mà xác quyết .
5. Cung Tử Tức
Tử tức cung không những chỉ về con mà còn nói lên năng lực sinh sản, sinh dục nói chung. Vì lẽ đó mà khi những sao Thiên Hình Kiếp sát Open, thì người mẹ dễ phải phẫu thuật lúc lâm bồn .Cung này được phép tốt hơn cung mệnh hay bất kỳ cung nào trong lá số, theo đúng niềm tin của câu : “ con hơn cha là nhà có phúc ”. Cung Tử tức tốt có nghĩa là những sao đúng cách cục, bộc lộ ý nghĩa thấp nhất là con cháu dễ nuôi, có hiếu, cao hơn thì là con cháu giàu sang làm rạng rỡ tổ tông .
Quan niệm truyền thống lịch sử thường ưa có quý tinh và phúc tinh trong cung mệnh. Quyền tinh, sát tinh nếu Open nhiều thì hoàn toàn có thể là hoạ, hoàn toàn có thể là phúc, vì nó nếu không chỉ việc khó nuôi con, con hư hỏng thì đe doạ đến một cung mệnh yếu ớt : đây là đứa con khắc cha mẹ .Quý tinh là gì ? Là Nhật Nguyệt sáng sủa, tam hoá, long phượng, cái mã, khôi việt … Phúc tinh thì có Đồng Lương, Thiên phủ, Tứ đức, Quan Phúc, Quang Quý …
6. Cung Điền Trạch
Có câu : An cư thì mới lạc nghiệp. Ấy vậy mà người ta lại cứ đi coi Điền là một nhược cung .Cung Điền chỉ nhà cửa, gia tài lớn, sự nghiệp lớn. Thời nào thì thời, quan to tất cái nhà thường cũng phải to, còn người nghèo thì nhà rách nát vách nát, thậm chí còn không có nhà. Thế nên cứ ngắm cung Điền thì biết được nhiều việc về sự giàu sang hay nghèo hèn. Các ông quan to, giám đốc, chỉ huy cung Điền phải rất tốt, nếu không thì khó mà tạo dựng được sự nghiệp, có tạo được thì cũng chỉ là nổi tiếng suông, không có tiềm năng .
Cung Điền hay nhất là có tài tinh, có sao chủ sự sang trọng đẹp đẽ như Long Phượng Thai Toạ. Ngoài ra nên có sao chủ sự uy nghiêm, sự hỗ trợ, sự bảo vệ, như Tả Hữu, Quan Phúc… để ý nghĩa về sự nghiêp được tốt đẹp.
Người có cung Điền tốt thì trong sự nghiệp có thể có những đầu tư vào lĩnh vực lớn như xe hơi, bất động sản. Cung điền suy yếu thì dù các cung khác có tốt, cũng chỉ nên làm các lĩnh vực gắn với sản phẩm nhỏ .
7. Cung Quan Lộc
Cung này ý nghĩa chính yếu nhất là nói lên việc làm của đương số, những việc làm mà đương số có duyên làm, hoàn toàn có thể làm. Ngoài ra còn có ý nghĩa chỉ cấp trên, cơ quan .Đương nhiên một cung Quan tốt thì việc làm thuận tiện, thuận tiện. Có nhiều sao chủ quyền quý kĩ năng thì trình độ cao, hoàn toàn có thể có năng lực chỉ huy. Ý nghĩa quyền chức không thực sự quyết định hành động tại đây. Chính thế cho nên ta thấy ngoài đời có nhiều người chẳng giỏi về trình độ nhưng vẫn có ghế, có quyền thế đàng hoàng, đó là vì những cung như Điền, Di, Mệnh, Nô phối hợp tốt. Trường hợp Quan tốt và những cung kia cũng tốt thì vị thế có được do thực taì.
Quan tốt cũng thường là công chức, làm cho chính quyền sở tại, nhà nước. Còn Quan không tốt thì là dân tự do nhiều hơn, và vẫn hoàn toàn có thể thành đạt .Tuỳ vào ngũ hành, tính lý và hình tượng của những sao trong những cung Mệnh Tài Quan mà quyết định hành động về nghề nghiệp, cung Phu Thê hoàn toàn có thể bổ túc thêm với ý nghĩa tạo cách cục, hay chế hoá cho Quan Lộc .Cung Quan còn biểu lộ những gì đương số nhận được từ xã hội, từ người trên, cấp trên, cái này người ta gọi là ” được lộc ”. Chữ Lộc ở đây không chỉ có nghiã hẹp là tiền tài .
8. Cung Thiên Di
Cung này chỉ năng lực thích ứng với xã hội và hoạt động giải trí trong xã hội. Với ý nghĩa đó thì nó sẽ gồm cả : năng lực kết giao bè bạn, chỉ huy, thích ứng hay chỉ huy thực trạng …. Và như vậy rõ ràng là một cung Di tốt sẽ góp thêm phần quan trọng tạo nên thành công xuất sắc của cuộc sống. Người Di tốt thì năng lực giao tế đa phần tốt .Trong một ý nghĩa nhỏ hơn, nó chỉ chung về những hoạt động giải trí vận động và di chuyển, di cư của người đó trong đời.
Vì vậy có vai trò quan trọng khi điểm hạn và xem có sống xa quê hay không .Cũng từ những lý luận trên, ta suy ra cung Di tốt là cung Di có nhiều sao chủ sự linh động, bén nhạy, mềm mỏng. Vậy thì Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Tấu thư, Xương Khúc, Hoá Khoa … hẳn nhiên là tốt. Một cung Di quá tốt cho đương số lời khuyên : li hương lập nghiệp. Mã Khốc Khách Lộc Trường Sinh là một cách tốt đặc biệt quan trọng cho cung Di .
9. Cung Tật Ách
Có quan điểm cho là Tật ách biểu lộ thực chất con người, còn cung Mệnh chỉ là vỏ ngoài. Lý luận này có nhiều điểm xích míc .Rõ ràng có những người bộc lộ không khác nhiều với thực chất .Do đó cung Tật ách chỉ là chỉ chung về bệnh tật tai ách mà thôi. Ngay cả đám ma thế nào cũng chưa chắc được, cái chết và đám ma không nhất thiết nằm ở cung Tật ách.
Tuy cung này không phải là cường cung, nhưng vì bệnh tật và tai ách gây ra nhiều khổ cực, lo ngại cho đương số, nên cung Tật xứng danh được xem xét kỹ càng .Trong cung này, quyền tinh quý tinh gì cũng chẳng quan trọng, chỉ quan trọng về những sao biểu tuợng cho bộ phận khung hình và những phúc thiện tinh. Dĩ nhiên ai cũng muốn khoẻ mạnh và ít tai tật. Vậy thì trong cung này, cần nhất là sự sinh vượng và tránh sát tinh.
Chính tinh vượng địa, Quang Quý Quan Phúc Tứ Đức khi nào cũng được nghênh đón. Triệt Tuần tại một cung Tật vô chính diệu cũng là cách tốt .Muốn đoán đơn cử hơn thì từ tượng hình của những sao mà luận, không có gì phức tạp .Có một vai trò bổ trợ khác của cung Tật. Nếu cách của cung Mệnh là người che giấu, hay là người giả dối, thì người ta hoàn toàn có thể suy ra tính cách bản năng của anh ta trong cung Tật ách. Nhưng ý nghĩa này rất mờ nhạt, hiếm khi phải sử dụng .
10. Cung Phụ Mẫu
Phụ mẫu cung hầu hết chỉ vai trò của cha mẹ trong đời sống của đương số, nói hình tượng hơn là ta nhìn cha mẹ của đương số qua lăng kính của chính đương số. Chứ không nhất thiết là nó hoàn toàn có thể cho thấy đúng chuẩn cuộc sống của cha mẹ .Trường hợp cung Phụ mẫu rất đẹp thì thường là cha mẹ khá, tất yếu phải phối hợp với Nhật Nguyệt. Nhưng khi cung Phụ mẫu xấu thì chưa chắc cha mẹ đã kém, mà chỉ là đương số không nhận được tương hỗ của cha mẹ, không được hưởng lộc hay tình yêu từ song thân. Còn có ý nghĩa khác : khắc phụ mẫu .Nằm trong tam hợp Tử Phụ Nô, xung chiếu với Tật ách, Phụ mẫu có công dụng phối hợp để luận giải những cung này .
11. Cung Huynh Đệ
Huynh đệ cung chỉ số lượng đồng đội, sơ lược về cuộc sống của bạn bè và quan hệ của bạn bè với đương số. Cung này không quan trọng lắm. Nếu có nhiều cát tinh có khi còn là ý nghĩa xấu, bởi như vậy là mất hết tinh hoa của những cung khác .
12. Cung Nô Bộc
Cung này chỉ bạn hữu, người dưới quyền, vợ bé. Hoàn toàn không có ý nghĩa : nếu cung Nô vượng cung mệnh suy tức là mình làm tôi tớ cho người khác .Việc mình làm thuê hay mình hèn kém là do những cung Mệnh Tài Quan Điền Di chi phối, chứ không phải từ cung Nô .Cung Nô cần nhất là tính hoà thuận, tương hỗ, nên có Tả Hữu là hợp nhất, không nên gặp hung sát tinh và những sao chỉ bất hoà như Hoá Kỵ, Phá Điếu. Cung này mà nhiều sao tình duyên chứng tỏ đời sống tình ái đa dạng và phong phú, nhiều chi nhiều nhánh, hoặc phóng túng .Sách số nào cũng chỉ khi xem một cung thì phải xem phối hợp : cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, toàn bộ là 5 cung cùng một lúc để giải đoán .
Có quan điểm còn nhìn nhận thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ suất cho cung chính là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự nhìn nhận này nhằm mục đích phân định được những ảnh hưởng tác động nào là trực tiếp và ảnh hưởng tác động nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được đơn cử và khá đầy đủ hơn .Riêng theo cụ Thiên Lương thì cơ bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp ( tương sinh ) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu ( kìm hãm ) tuyệt đối chính là đối phương .
Phân tích ý nghĩa của chính tinh và phụ tinh
Chính tinh
Trong tử vi 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn bộ các lá số. Mấu chốt của việc luận đoán là cần phải nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh. Nắm bắt được ý nghĩa của 14 chòm sao đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta có thể tự mình đọc được cơ bản ý nghĩa của từng cung mệnh trong lá số tử vi. Thông qua những cơ sở này, mới có thể hiểu rõ ý nghĩa của chúng khi vào 12 cung trong lá số tử vi. Dưới đây là ý nghĩa cơ bản của 14 chính tinh:
1. TỬ VI
Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần “ Quần thần củng chiếu ”. Chính do đó mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục thông thường .Quần thần ở đây là : Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ can đảm và mạnh mẽ, có tài, có thế.
Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng thoáng rộng .Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có tri thức, có trí tài, cũng có năng lực làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá thể gặp nhiều cơ hôi, có năng lực ngày càng tăng vị thế .Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người .Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục .Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, so với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn .
Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.
Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp .Lời bàn : Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên vì thế nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ thông thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về những sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tính năng, nếu đơn lẻ một mình thì công dụng giảm sút, coi như không có .Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, những sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều chưa ổn .
2. THIÊN CƠ
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì mưu trí tuyệt đỉnh công phu, có năng lực dụng thành chính nghĩa. Nếu chẳng gặp được cát diệu, và lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với những sao vô lương thì đặc thù của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá.
Có thể thấy rằng Thiên Cơ so với những phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt quan trọng nhạy cảm .Hóa Quyền có năng lực tăng cường tình không thay đổi của Thiên Cơ, cũng ngày càng tăng năng lực đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa ngày càng tăng năng lực mưu trí tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt so với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh thương mại, là kẻ chỉ thích kiếm tiền .Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt .Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự tính, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn .
Thiên Cơ vốn được gọi là sao “ Thiện Biến ” cho nên vì thế tình cảm thường đổi khác mạnh, hoặc tư tưởng đổi khác mạnh. Thường là sao biến hóa mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, do đó rất cần Hóa Quyền để tăng độ không thay đổi. Mà Thiên Cơ lại vốn có thực chất của mưu thần, thế cho nên khá thích hợp với vai trò phụ tá .
Lời bàn : Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa hoàn toàn có thể cải biến được tinh chất của những tinh diệu, đơn cử là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh nhìn nhận Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có năng lực thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào vào mạng lưới hệ thống những sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải công dụng xấu của 1 số ít sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung .
3. THÁI DƯƠNG
Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc .Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem những vị trí miếu vượng, cư những cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng .Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh đêm hôm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng thông thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ những Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương .
Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm đặc thù quý hiển của Thái Dương, nhưng cần chú ý quan tâm là tại xã hội văn minh thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên vì thế cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy .Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ tỏa nắng mà rất thịnh, có năng lực danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là cấu trúc đẹp. Trong cái ánh sáng ấm cúng của Thái Dương, người ta rất tự do.
Cho nên cần xem xét kỹ toàn bộ những đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm cúng của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy .Thái dương ở trên trời quản lý và vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên vì thế Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên những lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “ Quý ”, trước phải có “ Quý ” ( khét tiếng ) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có thực chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ thực chất này .
Lời bàn : Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý so với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét những phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra yếu tố đồi với người sinh ban ngày hay đêm hôm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có quan điểm rất thực tiễn khi gắn với xã hội tân tiến, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không nhìn nhận cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có niềm tin quảng bác “ cho mà không nhận ”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy ưng ý với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc ép chế, chuyên quyền không phải là không có .
Xem thêm: Luận giải ý nghĩa sao thái dương tại 12 cung trong tử vi
4. VŨ KHÚC
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành vi kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán. Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và những cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá. Người Vũ khúc tính cứng rắn, vì vậy rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng .
Sao Vũ Khúc so với Tứ Hóa cũng đặc biệt quan trọng nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên lộc khí càng vượng, cũng hoàn toàn có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ ngày càng tăng đặc thù cương liệt của Vũ khúc do đó đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, do đó Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó .Người Vũ khúc tính cô khắc, do đó cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung.
Thiên Phủ là tài khố ( kho tiền ), hai tài tinh gặp nhau là một sự tích hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp. Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổng hợp khó hoàn mỹ, hầu hết là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng.
Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là đặc thù nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi lúc cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc ( đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ ) “ tuy nhiên khúc hội ” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần quan tâm trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục. Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, do đó không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt. Nhưng Vũ khúc lại có hành vi tương đối hùng vĩ, vì vậy rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp .
5. THIÊN ĐỒNG
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ tận hưởng và ý chí .Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được thực trạng tốt 1 số ít ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả khó khăn vất vả.
Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt so với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì hoàn toàn có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phong phú song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu. T
hiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt quan trọng tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn khó khăn, có lúc rất khó khăn vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “ vãn vận ” ( vận muộn ), mặc dầu Thiên Đồng được nhìn nhận là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn .
6. LIÊM TRINH
Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác. Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải quan tâm cẩn trọng .Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng hoàn toàn có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh.
Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc ( văn xương, văn khúc ) và Lộc tinh, có năng lực phát huy cái mặt tốt đẹp của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt đẹp, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổng hợp trên đây gọi là “ Gặp thiện thì theo thiện ”. Liêm trinh chủ về tâm tư nguyện vọng, nếu tốt thì tình cảm nhiều mẫu mã, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí còn không hề khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh thâm thúy niềm tin, khi suy đoán cần phải rất là xem xét, đặc biệt quan trọng là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm .
7. THIÊN PHỦ
Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, do đó cũng cần “ quần thần đồng hội ”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái can đảm và mạnh mẽ kinh khủng chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về năng lực vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự thận trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được những cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà bộc lộ của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn vất vả, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài.
Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì tuyệt vời và hoàn hảo nhất, chính bới xã hội ngày này người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ tăng trưởng thành gian trá, phù thịnh. Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt quan trọng ( gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp vô lương ) còn không dù có gặp “ gian ” cũng chẳng lộ ra là “ gian ” .
8. THÁI ÂM
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh đêm hôm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh đêm hôm, nếu người sinh ban ngày và lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp .Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, do đó Thái Âm cũng gồm có ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau.
Vũ khúc lá hành vi cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang đặc thù phụ tá. Có lúc lại có năng lực nắm giữ quyền lực tối cao tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa. Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.
Nhưng tổng hợp của Thái Âm không không thay đổi, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm chỉ huy. Nếu lại gặp Sát tinh thì hoàn toàn có thể trở thành trò đùa của quyền lực tối cao. So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú.
Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất độc lạ so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực. Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự độc lạ giữa Thiên phủ “ thâm trầm ”, khác với Thái Âm là “ Âm Sâm ” ( Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm ) .
9. THAM LANG
Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn hoàn toàn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân đối, và lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm .Hóa Lộc ngày càng tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng.
Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, hoàn toàn có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương. Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có năng lực tình dục mạnh, thơ rượu giàu sang mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật và thẩm mỹ. Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa .Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “ đổi thang mà không đổi thuốc ” ( chỉ biến hóa cái vỏ vẻ bên ngoài mà thực chất thì không đổi ), mượn màu son phấn để che giấu toan tính.
Tham Lang cũng là một tay tiếp xúc đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần lớn là ở tửu sắc phong phú. Cũng đôi lúc thích những sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở trường thích nghi của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu và điều tra sâu xa. Cũng dựa trên đặc thù tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình hoàn toàn có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật và thẩm mỹ của Tham Lang .
10. CỰ MÔN
Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu .Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới hoàn toàn có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ .Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí còn kiện cáo.
Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho nên vì thế tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không riêng gì ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn còn hoàn toàn có thể trở thành nghề nghiệp, hoàn toàn có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có quý phái, lại có năng lực truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì giàu sang không thiếu .Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp toàn bộ mọi thứ. Trong đời người hoàn toàn có thể có một quá trình khó khăn so với lịch trình, hoặc một tiến trình thương tâm so với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, bộc lộ là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận.
Nếu như cách cục tốt ( Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc ), có tri thức lại có sức miêu tả tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão. Kỳ thực, tại văn minh, Cự môn được nhìn nhận cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, do tại hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh đối đầu tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên cấp dưới tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh động ( bất kể là nói thật hay không thật ). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không hề thiếu Cự môn .
11. THIÊN TƯỚNG
Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên vì thế nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính – giúp cho phường hung bạo.
Bởi vậy, thực chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng trọn vẹn chịu thực trạng của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải rất là cẩn trọng .Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, vì vậy có thuyết nói rằng “ Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng ” – ( Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật ), có năng lực có cố tật, hoặc thân thể yếu ớt nhiều bệnh tật .Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung ( hai cung bên cạnh bản cung ), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “ Hình Kỵ giáp Ấn ” ( do Thiên Lương là Hình ) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “ Tài Ấm giáp Tướng ” ( Thiên Lương là Ấm ), là một cấu trúc đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn đa phần là xem sự phân bổ của Lục Cát, Lục sát mà đoán định .Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “ không có tính cách ” ( đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách ) .
Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng tác động rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp .Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có tác động ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi lúc lại bộc lộ tính cách không hề làm chủ bản thân, như vẫn nói là “ hình thể giống người mạnh ” ( thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh ) .Thiên Tướng cũng có đặc thù tương tự như như Thiên Cơ. Đều dựa đa số vào phụ tá .
Xem thêm: ý nghĩa sao thiên tướng tại cung mệnh và các cung khác
12. THIÊN LƯƠNG
Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có đặc thù “ cương khắc cô kỵ ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên vì thế cách này là không tốt .
Nhưng Thiên Lương cũng có đặc thù của cái bóng che chở, tức là ẤM ( hán việt : Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu ). Ấm ( đặc thù ) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “ tiên phá hậu lập ” ( trước phá đi rồi sau mới lập thành ), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được đặc thù của Thiên Lương.
Tuy nhiên, ở đầu cuối thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt .Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ bộc lộ can đảm và mạnh mẽ nhất.
Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có năng lực phát huy cái tình chất “ ẤM ” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có năng lực tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “ tiêu tai ” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên hoàn toàn có thể hóa khí thành khoa tinh .
Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ : Cái ánh sáng sắc tố của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng ?Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng ( đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt ). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm ( thâu nhận vào bên trong ). Nếu như những điều ở trên trọn vẹn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy không thiếu cái tính Hình của Thiên Lương .
Xem thêm: Luận giải ý nghĩa sao Thiên Lương tại mệnh và các cung khác
13. THẤT SÁT
Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời. Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên mặt trận, cho nên vì thế Thất sát mang theo đặc thù cương khắc .Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm khó khăn .Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ ( 1 ), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, hoàn toàn có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ tiên tiến, trong cái sự phân công rất tinh xảo của xã hội tân tiến, người chuyên nghiệp cũng tương tự với khái niệm giầu có .Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là “ hóa sát vi quyền ” ( biết SÁT thành QUYỀN ).
Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phong phú khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì năng lực là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp .Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của nhà vua xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, trọn vẹn phụ thuộc vào vào chuyện quân lương mà thành sự, vì vậy mà Thất sát rất cần gặp Lộc ( rất tốt nếu gặp cả song Lộc ).
Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, do đó mà Tả Hữu Xương Khúc so với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng so với Thất sát .Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy .( 1 ) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ ” – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như vậy không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC .
Xem thêm: Luận giải ý nghĩa sao Thất Sát tại cung mệnh và các cung khác
14. PHÁ QUÂN
Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất “ chiến tướng ” tương tự như như Thất sát nhưng khác làở chỗ : Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao .Bởi Phá quân “ năng công bất năng thủ ” – hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “ động ” nhiều hơi.
Dù cho hội được tử vi thì cũng không hề vì vậy mà “ hóa phá vi quyền ” – Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm tác động ảnh hưởng đến tính không thay đổi của Tử vi .Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, hoàn toàn có thể bị hình thương trên thân thể .Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải tổ bản tính động. Với Hóa quyền cũng hoàn toàn có thể tựa như như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc .Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổng hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân hoàn toàn có thể vừa “ công ”, vừa “ thủ ”, gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ .
Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát hoàn toàn có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, do đó tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi đặc thù không thay đổi của Tử Vi được duy trì .Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc “ chiến tướng bị hao tổn ” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không hề là người nhàn nhã, lắm ý niệm .
Xem thêm: Ý nghĩa sao Phá Quân tại cung mệnh và các cung khác trong tử vi
Phân loại các phụ tinh theo đặc tính chủ yếu
1. Các sao tốt
- Quý tinh: Lộc Tồn – Ân Quang – Thiên Khôi – Hóa Lộc – Thiên Quý – Thiên Việt – Long Trì – Tấu Thư – Phượng Các – Thiên Mã
- Phú tinh: Lộc Tồn – Hóa Lộc
- Quyền tinh: Hóa Quyền – Quốc Ấn – Quan Đới – Tướng Quân – Phong Cáo -Đường Phù
- Phúc tinh: Ân Quang – Hóa Khoa – Thiên Hỷ – Thiên Quý – Thiên Giải – Thiếu Dương – Thiên Quan – Địa Giải – Thiếu Âm – Thiên Phúc – Giải Thần – Hỷ Thần – Thiên Thọ – Thiên Đức – Bác Sỹ – Tràng Sinh – Nguyệt Đức – Đẩu Quân – Đế Vượng – Long Đức – Thiên Y – Thanh Long – Phúc Đức – Thiên Trù
- Văn tinh: Thiên Khôi – Văn Xương – Phong Cáo – Thiên Việt – Văn Khúc – Quốc Ấn – Hóa Khoa – Lưu niên văn tinh – Thai Phụ
- Đài các tinh: Tam Thai – Bát Tọa – Lâm Quan – Hoa Cái – Đường Phù
- Đào hoa tinh: Đào Hoa – Hồng Loan
2. Các sao xấu
- Sát tinh: Địa Kiếp – Thiên Không – Hỏa Tinh – Địa Không – Kiếp Sát – Linh Tinh – Kình Dương – Đà La
- Bại tinh: Đại Hao – Thiên Khốc – Suy – Tiểu Hao – Thiên Hư – Bệnh – Tang Môn – Lưu Hà – Tử – Bạch Hổ – Phá Toái – Mộ – Thiên La – Tử Phù – Tuyệt – Địa Võng – Bệnh Phù – Thiên Thương – Thiên Sứ – Quan Phù – Tuế Phá
- Ám tinh: Hóa Kỵ – Thiên Riêu – Thiên Thương – Phục Binh – Thiên Sứ – Quan Phù – Cô Thần – Quả Tú – Quan Phủ
- Dâm tinh: Thiên Riêu – Hoa Cái – Mộ – Mộc Dục – Thai
- Hình tinh: Thiên Hình – Quan Phù – Thái Tuế
3. Các sao không tốt, không xấu
Tả Phù – Dưỡng – Triệt – Hữu Bật – Tuần
Kinh nghiệm giải đoán ĐẠI-TIỂU HẠN
Trên bước đường nghiên cứu và điều tra và học hỏi về Tử-Vi, tôi hoàn toàn có thể nói rằng việc giải đóan vận hạn ( tức là Đại Tiểu Hạn ) khó khăn vất vả, phức tạp, nhất là vì ta phải xem xét và phối hợp qúa nhiều yếu tố, mặc dầu trong nhiều sách số có bàn tới góc nhìn này, nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ ràng. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì Đại Tiểu hạn gặp sao này bị hạn, gặp sao kia phát lộc, hoặc Đại hạn nhiều sao tốt hơn sao xấu là tốt, hoặc Đại hạn xấu mà Tiểu hạn tốt cũng không hay … như vậy tất cả chúng ta làm thế nào hoàn toàn có thể đi tới Tóm lại và như vậy cũng quá giản dị và đơn giản, thuận tiện và thiếu linh họat, uyển chuyển, trái hẳn với ý thức Tử-vi .Vi vậy tôi cố gắng nỗ lực thử tiến hành cách giải đoán Đại Tiểu hạn ( trong bài này tôi không đề cập đến Nguyệt và Nhật Hạn vì đi qúa sâu vào cụ thể rất khó khăn vất vả, dễ sai lầm đáng tiếc và dễ bị tuyệt vọng ) nhưng sẽ bỏ lỡ những nguyên tắc thường được những sách nêu ra để cho khỏi rườm rà .
Kinh nghiệm luận đoán đại hạn
Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đoán hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ luân hồi 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là những Đại hạn không khi nào giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn ( vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở lại cung trước ). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu và khám phá vô cùng .Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau ( theo thứ tự ) :
- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
- Khác ( Nếu có)
Ghi chú :
- Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
- Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
- Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh
Lẽ tất yếu qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của những sao mà tôi không nêu ra, vì những sách đã có bàn tới, ngoài những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ đơn cử để qúy bạn hiểu rõ những nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :
Một số nguyên tắc để luận đoán đại hạn
- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.
- Ví dụ: như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.
- Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.
- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.
- Ví dụ: Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.
- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.
- Ví dụ: Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)
- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.
- Ví dụ: như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …!, nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.
- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .
- Ví dụ: Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..
- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …
Kinh nghiệm luận đoán tiểu hạn
Bàn về Tiểu-Hạn ( tức là vận hạn trong một năm ) qúy bạn sẽ thấy khó khăn vất vả, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn .Cung Tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung ( Tý, Sửu, Dần, Mão …. ) Như Tiểu hạn mà thật tốt về sự nghiệp, nhưng xem những cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu công danh sự nghiệp tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn công danh sự nghiệp, và Lưu Đại Hạn không báo hiệu sự nghiệp, thì sự nghiệp trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có sự nghiệp nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải quan ngại, chính do Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp … .Nếu đặt yếu tố nguyên tắc thì Tiểu-Hạn tạm địa thế căn cứ vào những điểm sau ( mà một vài điểm theo quy tắc đã được những sách đã nêu ra ) :
- Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn
- Tương quan giữa Ngũ hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
- Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.
- Tương quan giữa Ngũ Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn
- Các phi tinh (tức là các sao Lưu như : Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu Đà-La, Lưu Tang-Môn … ) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra.
- Khác (như Tứ hành xung, Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)
Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng:
- Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ Đại Hạn theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối tương quan này tối quan trọng, cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc dầu cứ 12 năm lại trở về lại cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này tôi chỉ xin nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng
- Ví dụ: Đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động. Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư thường chủ về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh, Hóa Kị, Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình …Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu :
- Đại Hạn có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng.
- Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa, Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc … thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …
- Nếu thấy các sao nhập Đại Hạn & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi, cần phải xét xem các Chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh của Tiểu-Hạn hay không.
- Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm. Vì thế Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.
- Nếu chú ý về cá nhân mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một trong những cung liên hệ trực tiếp đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc )
- Ví dụ: Mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc cung Tử-Tức thì dù cho Tiểu-Hạn có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại-Hạn chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể như vô vọng ?) mới hạnh thông được.
- Sau hết, tôi xin nêu ra một trường hợp rất khó đoán : Đương số Mệnh có Tham Lang cư Thìn, tức là tổng quát sống lả lướt và Đào-Hoa. Cung Thê có Đào-Hồng, Tả-Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn, mai mối nhiều và Đại-Hạn lại đi tới cung Thê như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó các thày Tử-vi đều đóan đương số lấy vợ ở các Tiểu-Hạn có : Đào-Hồng-Hỷ, Tả-Hữu, Xương-Khúc … nhưng ai ngờ rằng, đương số lại lập gia đình trong Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Tang-Hổ, Nhật-Nguyệt hãm địa hội Hóa-Kị và lại không ngó thấy ở cung Thê (vì thường thường các nhà Tử-vi hay lựa Tiểu-Hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cùng Phối để đóan hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận một chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “ Tổn hữu dư, bổ bất túc “ trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân qúa nhiều (tức là dư) thì cần phải có các sao tiết giảm như Cô-Qủa, Tang-Hổ, Kị … thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không “Trăm mối tối nằm không” nhất là Tiểu-Hạn vào cung Giải-Ách, tức là tránh né không nhìn thấy cung Thê là cung Đại-Hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng qúa mạnh của các sao Hỷ. Trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp, nên quý bạn đừng qúa hoang mang, cứ đóan như thường lệ đi !!!…
- Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hòan tòan. Vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ nhiên nếu hai sao này khắc Mạng là điều tối kị !) Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời “ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình có Mạng khắc hai sao này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ sao chế ngự được Tham-Phá (như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng cần sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao đối kháng với các sao ở Tiểu-Hạn.
- Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản Mệnh là tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản Mệnh, còn như Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được, tuy không phải là hay.
- Ví dụ: Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức là mình lo được cho con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả một chút vì con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non hay con cao bồi du đãng, ăn chơi, hút chích, sì ke ma túy ….. mà mình vẫn thương yêu chúng )
- Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi tới cung Nô-Bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như Tiểu-Hạn đi tới cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu xấu qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời … ).Những điểm trên đây quý bạn cũng có thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới).
- Về vần đề Lưu Đại-Hạn, Địa bàn (tức là Tiểu-Hạn theo vị trí cố định của các cung – tức Lưu Thái tuế theo từng năm, như năm nay Đinh Hợi xem Địa Bàn ở cung Hợi-tức Lưu Thái Tuế ở cung Hợi kích động) và Thiên Bàn (tức là Tiểu-hạn theo hàng Chi an ở ô giữa lá số. Tôi thấy không quan trọng lắm. Vì thực ra chỉ xét kỹ Thiên Bàn là đủ và đỡ rắc rối qúa mức. Chỉ trừ khi nào ta thấy Thiên bàn qúa xấu hoặc không rõ chút nào, lúc đó ta mới cần kết hợp thêm Lưu Đại-Hạn, và địa bàn để xem có yếu tố gì cưu giải hoặc soi sáng thêm hay không ..?? Về cách Lưu Đại-hạn trong các sách như Tử-vi đã có ghi rõ và nêu rồi, tôi không nhắc lại nữa. Bởi thế ngay khi rảnh rang ngồi cân nhắc kết hợp cũng chưa chắc đã giải đóan được chính xác. Vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố kia sẽ đưa đến những kết luận khác nhau. Dù có biết đủ các dữ liệu để giải đoán Tiểu-hạn cao hay thấp còn tùy thuộc rất nhiều vào óc kết hợp tinh vi và kinh nghiệm của người giải đóan.
- Về ngũ hành của hàng Can. Năm nhập hạn cũng ảnh hưởng tới Tiểu-hạn nhiều hay ít .
- Ví dụ dễ hiểu như sau : Một người mạng Kim có Cự Môn, Hóa-kỵ tọa thủ tại Mệnh. Đại-hạn có Không-Kiếp, Tả-Hữu, Sát Phá Tham (tức là hạn Trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm-Thân. Vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim là sinh Thủy cho nên nước qúa nhiều thì Kim phải chìm lỉm !?..
- Suy ra những trường hợp khác cũng vậy. Ví dụ như Tiểu-Hạn đến cung Điền có Tang-Hỏa và nhiều sao Hỏa. Nếu gặp năm Nhâm, hoặc Qúy (đều là Thủy) thì vẫn không đáng ngại về hỏa họan vì đã được Thủy dập tắt rồi !. Như vậy mục 4 này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đóan tiểu hạn, và đây cũng là một điểm cho thấy hai tiểu hạn (12 năm trở lại ) cùng 1 cung đã có sự khác biệt rồi.
- Cuối cùng là về các phi tinh (tức là các sao Lưu như Lưu Thái-Tuế, Lưu Lộc Tồn …) Tôi thấy các Phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định thêm một chút những yếu tố đã tìm ra. Ví dụ như biết hạn xấu rồi, thì nếu có thêm Lưu Kình-Dương gặp Kình-Dương cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu Tiểu-Hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có Nhà Tử-vi căn cứ vào vòng Tràng Sinh (Lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình như cha, mẹ, vợ con … Nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn bàn trong mục này.
Qua những điều tôi trình bày trên đây về Đại-Tiểu Hạn. Quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối và khó khăn rất nhiều, có thể làm ta chán nản. Vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra rồi mới thấy rõ cái hay của Tử-vi, và vì thế tôi thấy học Tử-vi không gì hay bằng chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi, chứ nếu chỉ có học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đóan (mà các sách đã nêu) không thôi, thì chẳng bao giờ có thể giải đoán vững vàng./.
Kiến thức tổng hợp để luận đoán lá số tử vi
Phần này tôi xin mạn phép không trình diễn trong bài viết này. Vì số lượng giới hạn bài viết không được cho phép. Tôi sẽ tổng hợp lại và update link bài viết lên đây. Mời quý vị theo dõi sau .
Kết luận lá số tử vi
Sau khi đã nghiên cứu và phân tích, tổng hợp lại cách cục .. thì ta sẽ đi đến Kết luận sau cuối về mọi mặt của lá số. Theo kinh nghiệm tay nghề của tôi thì ngoài kỹ năng và kiến thức về tử vi đẩu số, thì muốn luận đoán đúng lá số tử vi thì ta cần luận đoán thật nhiều, mỗi lá số sau khi luận đoán ta sẽ thấy điều đúng và chưa đúng. Từ đó rút ra kinh nghiệm tay nghề luận giải cho riêng mình .