Tu hạnh đầu đà là gì? Lợi ích của 13 Pháp hạnh đầu đà mang lại cho người hành trì
Tu hạnh đầu đà là một trong những phương pháp tu khổ hạnh để tôi luyện thân tâm, trừ bỏ phiền não cấu trần của Phật giáo. Đức Phật dạy rằng: “Pháp đầu đà thành tựu ba cõi: Người, trời và Niết Bàn như ý nguyện. Pháp đầu đà hằng nuôi dưỡng, bảo vệ chúng sinh, là ruộng phước cho chư Thiên và loài người. Nếu như chư Tăng thực hành hạnh đầu đà thì chính Pháp được trụ lâu dài ở thế gian và các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán sẽ xuất hiện”. Vậy những lợi ích mà Pháp tu đầu đà khổ hạnh mang lại cho hành giả tu tập là gì? Kính mời quý vị cùng đón đọc bài viết dưới đây để tìm hiểu và tán thán hạnh đầu đà .
Tu hạnh đầu đà là gì?
Tu Hạnh Đầu Đà (Dhuta), là hạnh tu khắc khổ để dứt bỏ các tham dục. Có 12 (có nơi ghi 13) hạnh đầu-đà:
- Hạnh mặc y phấn tảo: nghĩa là vải may y nhặt ở lề đường, nghĩa địa, đống rác...
- Hạnh ba y: nghĩa là sử dụng những miếng vải chắp vá lại thành y. Chỉ dùng ba y không nhận thêm y thứ tư.
- Hạnh khất thực: nghĩa là dùng thức ăn bằng cách đi xin. Xin ngày nào ăn ngày đó không để dành.
- Hạnh khất thực từng nhà: nghĩa là đi khất thực theo thứ tự, không phân biệt giàu nghèo.
- Hạnh nhất tọa thực: nghĩa là ngồi ăn chỉ một lần, khi đã đứng lên rồi thì không ngồi xuống ăn lại. Hoặc không ăn nhiều lần trong ngày.
- Hạnh ăn bằng bát: Chỉ ăn những thức ăn xin được trong bình bát, không nhận bát thứ hai.
- Hạnh không để dành đồ ăn: không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong.
- Hạnh ở rừng: nghĩa là chỉ ở rừng không ở làng xóm.
- Hạnh sống bên gốc cây: nghĩa là chỉ ở gốc cây, không sống ở nhà.
- Hạnh ở giữa trời: nghĩa là chỉ ở ngoài trời không sống trong nhà, dưới tán cây.
- Hạnh ở nghĩa địa: nghĩa là chỉ sống ở nghĩa địa.
- Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
- Hạnh ngồi không nằm: nghĩa là chỉ ngồi không nằm, khi ngủ cũng trong tư thế ngồi.
Điều đáng chú ý là hạnh đầu-đà về một vài phương diện khá giống với khổ hạnh của ngoại đạo nhưng mục đích hoàn toàn khác nhau. Đầu-đà là phương tiện quý báu trợ duyên cho sự thoát ly khỏi tham dục. Tu hạnh đầu-đà để thành tựu Giới, tăng trưởng Định, và viên thành Tuệ. Thế Tôn đã xác quyết, “hạnh đầu-đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời, thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm đều còn ở đời”.
Trong thời hiện đại hiếm có người tu nào giữ được một, hai hay trọn hết các hạnh đầu-đà. Tuy vậy, công hạnh của bậc Thánh Đầu-đà đệ nhất nhắc nhở chúng ta về một đời sống giản dị, thanh bần, muốn ít và biết đủ. Làm sao để trong đời sống tu hành không bị vướng mắc nhiều quá vào ăn, mặc, ở hay ngũ dục, ngũ trần nói chung. Vì giải thoát, trong ý nghĩa đơn giản nhất là không bị kẹt, bị dính mắc, thong dong với mọi thứ trong đời sống hàng ngày.
Xem thêm: Nguồn gốc, ý nghĩa của lễ Phật Đản trong Phật Giáo
Như vậy chúng ta có thể tóm tắt 13 đạo hạnh như sau:
Thứ nhất về việc mặc: người tu hạnh đầu đà chỉ mặc ba y, không nhận thêm y thứ tư. Vải lượm ở nghĩa địa, ngoài đường, đống rác đem về chắp vá khâu lại thành y để mặc, gọi là y phấn tảo. Không nhận y do thí chủ may sẵn cúng dường.
Thứ hai về việc ăn: người tu hạnh đầu đà chỉ ăn thức ăn trong bình bát, ăn bằng cách đi khất thực, khi khất thực phải đi tuần tự từng nhà, không phân biệt nhà giàu nhà nghèo, không phân biệt thực phẩm ngon dở, ăn ngày một bữa, ngồi ăn chỉ một lần, khi đã đứng lên rồi thì không ngồi xuống ăn lại. Không cất chứa hoặc để dành thức ăn qua ngày hôm sau.
Thứ ba về việc ở: người tu hạnh đầu đà ở gốc cây, ở rừng, ở nghĩa địa, ở giữa trời, ở chỗ nào cũng được miễn là an toàn, an ninh, đặc biệt chỉ ngồi không nằm khi ngủ cũng trong tư thế ngồi.
Công dụng của pháp đầu đà là để rèn luyện đức tính thiểu dục tri túc và ngăn ngừa lòng tham dục. Trong điều kiện sống ngày nay, khó ai có thể thực hành được mười ba hạnh đầu đà này.
Nguồn gốc của Pháp hạnh đầu đà trong đạo Phật
Khi Thái Tử Tất Đạt Đa (sau này trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) đi qua bốn cửa thành, thấy rõ bốn sự thật của cuộc đời: Sinh, già, bệnh, chết thì Ngài đã giác ngộ và phát tâm dũng mãnh dứt bỏ cung thành điện ngọc, vợ đẹp, con yêu, trút bỏ áo Hoàng bào của một vị Thái tử để mặc lên chiếc áo của một vị tu sĩ và bắt đầu cuộc hành trình đi tầm sư học đạo.
Năm năm tầm sư học đạo, sáu năm khổ hạnh rừng già, Ngài đã thực tập tất cả các phương pháp tu khổ hạnh theo quan điểm tu tập lúc bấy giờ: Hành thân hoại thể, phơi nắng, phơi sương, ngày ăn một hạt đỗ hoặc một hạt mè, có khi nhịn đói,... Và khi ấy Ngài đã đạt tới khổ hạnh bậc nhất thời bấy giờ.
Bởi quan niệm lúc bấy giờ là phải thật khổ thì mới đắc đạo. Và Ngài đã tinh tấn tu hành khổ hạnh đến đỉnh điểm, không ai hơn được nhưng cuối cùng thân thể Ngài tiều tụy, thậm chí là suýt chết.
Lúc ấy, Ngài giác ngộ ra rằng, tu khổ hạnh cực đoan không đem lại lợi ích. Vì thế, Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan và quay trở về tu tập theo con đường trung đạo, tức là nuôi dưỡng thân này có đủ sức khỏe để hành các Pháp. Cuối cùng, Ngài thành tựu đạo quả nhờ Pháp tu trung đạo này. Từ đó, Đức Phật đã hướng dẫn Tăng đoàn thực hành 13 hạnh đầu đà.
Người nào thực hành được 13 hạnh này thì Đức Phật khen ngợi, tán thán vì những lợi ích thù thắng mà Pháp hạnh đầu đà mang lại cho người chân thật thực hành. Con đường tu tập của những hành giả muốn thành tựu rốt ráo không thể không thực hành các Pháp khổ hạnh này. Và giữ gìn Pháp hạnh đầu đà chính là giữ gìn mạng mạch Phật Pháp trụ lâu dài ở thế gian, khiến chúng sinh được ân hưởng phước lành thù thắng trong nhiều đời nhiều kiếp.
Xem thêm: Quỷ môn quan địa ngục và ngày mở cửa âm phủ báo nghiệp
Lợi ích của 13 Pháp hạnh đầu đà mang lại cho người hành trì
1 Phát khởi và tăng trưởng 28 đức tính siêu việt
Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp câu 177: “Đầu đà khổ hạnh có lợi ích gì”, Đại Đức Na Tiên có nói về công năng diệu dụng của 13 Pháp đầu đà, một vị Tỳ Kheo mà thọ 13 Pháp đầu đà thì gần kề bên Niết bàn (tức là thoát khỏi đau khổ ràng buộc của luân hồi sinh tử). Hơn nữa là mang lại lợi ích cho chúng sinh không thể kể siết.
Chính vì thế mà Ngài nhấn mạnh 100 cư sĩ đạt đạo, 1000 cư sĩ đạt đạo cũng không thể bằng một vị Tỳ kheo hành 13 Pháp Đầu Đà mà đắc đạo.
Trong đó có 28 đức tính cao thượng siêu việt của 13 Pháp đầu đà khổ hạnh đó là:
1. Nuôi mạng trong sạch: Người tu hạnh đầu đà là người nuôi mạng sống của mình trong sạch không phải phiền đến ai.
2. An lạc quả, hạnh phúc quả: Sẽ đạt được quả an lạc và hạnh phúc
3. Sống đời vô tội: Người ấy sẽ không tạo tội lỗi gì cả
4. Giảm nỗi khổ cho người khác
5. Không sợ hãi
6. Không tổn hại ai
7. Lộ trình tiến hóa đi lên
8. Xa lìa điệu bộ hợm hĩnh khoe khoang, người ấy không bao giờ khoe khoang, không bao giờ kiêu mạn với ai cả
9. Xa lìa sự say mê
10. Hộ trì giữ gìn mình
11. Mọi người thương tưởng
12. Giáo hóa mình
13. Buông dao, buông trượng không bao giờ phải đấu tranh ác hại ai.
14. Rèn luyện sự thu thúc
15. Thực hành đúng đắn thuận lợi mục tiêu của mình
16. Làm cho mình được vắng lặng
17. Làm cho mình thoát khỏi phiền não
18. Dứt trừ sự luyến ái
19. Giảm trừ sự sân hận
20. Tháo gỡ si mê
21. Tiêu diệt ngã chấp, tiêu diệt ngã chấp ấy, cho nên chính nhờ tiêu diệt ngã chấp này mới dễ dàng đạt đạo.
22. Cắt đứt tư duy xấu xa, người thực hành Pháp Đầu Đà, tâm họ rất là lành thiện không có những tư duy xấu ác
23. Vượt hoài nghi
24. Trừ lười biếng
25. Tương tư không có chỗ nương
26. Hành được nhẫn lại, 13 Pháp Đầu Đà thì quá là nhẫn lại rồi, thực hành được 13 Pháp đấy là nhẫn lại lắm
27. Đức tính độ lượng vô giới hạn, tâm mình rộng mở vô giới hạn
28. Diệt tận khổ đau
Nếu không có 28 đức tính như thế thì có thể là 18 đức tính sau đây:
1. Hạnh kiểm thuần khiết
2. Thực hành hoàn thiện hạnh kiểm
3. Giữ gìn bảo vệ thân khẩu
4. Tâm được trong sạch
5. Bám chặt được sự tinh tấn không dời sự tinh tấn, người đã hành được hạnh Đầu Đà thì người ấy luôn luôn tinh tấn
6. Dứt trừ lo sợ
7. Dứt trừ ngã kiến
8. Dứt trừ kết oán
9. Trú vững trong tâm từ bi
10. Nhận lãnh vật thực ra sao cũng được
11. Có tâm thương tưởng bình đẳng và tôn trọng tất cả mọi người
12. Biết tiết độ trong vật thực
13. Hằng thức tỉnh
14. Không lưu luyến chỗ ở
15. Trú chỗ nào cũng an lạc
16. Ghét bỏ điều ác
17. Mến thích ở nơi thanh vắng
18. Không dễ buông xuôi
Sinh ra nhiều thiện Pháp thù thắng
13 Pháp đầu đà này trước hết được ví như đất vì đất là nơi nương tựa của mọi loài, Pháp đầu đà là nơi nương tựa sinh trưởng của mọi thiện Pháp và thực hành Pháp đầu đà sinh ra rất nhiều thiện Pháp.
13 Pháp đầu đà cũng được ví như nước bởi nước rửa sạch mọi bụi bặm dơ dáy, Pháp đầu đà rửa sạch trần cấu, uế ác. Và còn được ví như lửa đốt cháy mọi vật bởi Pháp đầu đà thiêu đốt phiền não, thiêu hủy các phiền não.
Bên cạnh đó, Pháp đầu đà ví như gió thổi bay đi tất cả mọi khí mọi mùi, thổi đi tất tất cả khí vị trần gian dù thanh hay trược, dù thơm hay thối. Nó được ví như thuốc để chữa bệnh, Pháp đầu đà đối trị tất cả tâm bệnh của tất cả con người.
Nó ví như nước trường sinh, Pháp đầu đà cho mọi người thưởng nếm nước cam lồ bất tử. Ngoài ra, Pháp đầu đà còn làm thành tựu cho tư cách, là nơi thương yêu của mọi người, là nơi không có tội lỗi, là nơi viên mãn đức tính lành, là nơi của những trạng thái tâm cao thượng dứt trừ ưu sầu nóng nảy rối ren, chặn đường của sự tái sinh luân hồi, như nước tưới thấm mầm cây, như lửa để nấu nướng đồ ăn, như là hầm tài sản của mọi người, như được thân cận bạn lành, người dũng cảm. Pháp hành đầu đà như người hầu hạ mong được quan tước, nơi dạy học trò học nghệ, tài nghệ, như cái kính để soi mặt.
Vì thế mà Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông ngay khi xuất gia liền thọ 13 Pháp đầu đà. Một ông vua sống trên nhung lụa, đứng đầu muôn dân mà khi xuất gia lại thọ khổ hạnh đầu đà thì đó phải là Pháp đặc biệt, tối thắng.
Đặc biệt, những ai thọ Pháp đầu đà thì rất dễ kiểm tâm. Ví như chúng ta có mấy chục bộ quần áo, khốn khổ vì nó; nhưng người tu Pháp đầu đà thì chỉ có ba y cho nên các Ngài kiểm tâm rất dễ, không tham đắm nhiều và hễ khởi lên ham muốn thì dễ dàng nhận diện ra tâm bất thiện đó của mình.
Những ai có thể thực hành Pháp hạnh đầu đà?
Việc tu hạnh đầu đà đối với người phàm tục sẽ gặp nhiều khó khăn và phải chấp nhận từ bỏ được vật chất, tạp niệm đời thường. Vì thế để có thể thực hành tu theo pháp hạnh đầu đà ít nhất phải có 10 điểm dưới đây.
- Những người thực hành được Pháp hạnh đầu đà thì trước tiên người ấy phải có đức tin lớn.
- Thứ hai phải có tâm tàm quý (tức là hổ thẹn).
- Thứ ba là người phải mạnh khỏe, ít bệnh tật.
- Thứ tư người phải thuần thục trong việc tìm kiếm chân lợi ích (tức là tìm kiếm chân lý).
- Thứ năm là người có nhiệt tình và chín chắn.
- Thứ sáu phải là người có trí tuệ.
- Thứ bảy là ham thích học hỏi và có kiến thức.
- Thứ tám là người thọ trì kiên định.
- Thứ chín là ít tìm lỗi của người khác.
- Thứ mười là người này luôn luôn an trú tâm mình trong tâm từ bi.
Khổ hạnh là cầm bình bát đi khất thực không phân biệt là khá giả hay khó khăn, đi mắt nhìn xuống và tối ngủ ở gốc cây, không ngủ 2 đêm một chỗ, những tấm y lấy ở rác, bãi tha ma, chắp vá lại để mặc. Mỗi ngày tập trung cho mình thiền định để giải thoát, giác ngộ.
Những người khổ hạnh thường ở chốn rừng sâu. Đức Phật quy định đi khất thực chỉ đi vào buổi sáng, quá 12 giờ trưa là không đi được nữa, có cơm hay không cũng ngồi dưới gốc cây, ăn cơm đúng 1 lần trong buổi trưa ngồi ăn 1 lần rồi đứng lên thì không ăn nữa. Buổi chiều dành nhiều thời giờ để thiền quán, thiền hành, ôn lại những lời dạy của Đức Thế Tôn.
Tu khổ hạnh cao đẹp ở chỗ giúp người tu dẹp bỏ được bản ngã, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh. Tức là, trên là xin giáo pháp của Đức Thế Tôn để nuôi giới thân tuệ, dưới là xin bát cơm của tín thí để nuôi thân tạm bợ này. Qua bát cơm đó để kích hoạt tâm từ bi và hạnh bố thí của con người. Đôi khi chỉ cho một miếng cơm nhưng mở rộng lòng, từ đó giúp người kia gieo hạt giống lành. Chiếc áo giải thoát của người tu đi ra ngoài còn biểu trưng cho lý tưởng giác ngộ.
Lời kết
Hạnh đầu đà là phương tiện quý báu trợ duyên cho sự thoát ly khỏi tham dục. Tu hạnh đầu đà để thành tựu Giới, tăng trưởng Định, và viên thành Tuệ. Thế Tôn đã xác quyết, “hạnh đầu đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời, thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm đều còn ở đời”.
Rõ ràng, trong thời hiện đại hiếm có người tu nào giữ được một, hai hay trọn hết các hạnh đầu đà. Tuy vậy, công hạnh của bậc Thánh Đầu đà đệ nhất nhắc nhở chúng ta về một đời sống giản dị, thanh bần, muốn ít và biết đủ. Làm sao để trong đời sống tu hành không bị vướng mắc nhiều quá vào ăn, mặc, ở hay ngũ dục, ngũ trần nói chung. Vì giải thoát, trong ý nghĩa đơn giản nhất là không bị kẹt, bị dính mắc, thong dong với mọi thứ trong đời sống hàng ngày.