Thiên Ất Quý Nhân Là Gì?

Chủ nhật, 27/10/2024 - 17:01

Mục lục
 
Mục lục

Thiên ất quý nhân là thần tốt nhất trong mệnh. Ai có nó thì vinh hiển, công danh sớm đạt, dễ thăng quan. Nếu mệnh thừa vượng khí thì có thể đạt đến danh tướng, công hầu. Đại, tiểu vận hành đến vận/năm đó thì nhất định sẽ tốt trên tất cả mọi phương diện: quan được thăng quan, người thường cũng gặp tin vui, nói chung đối với bất cứ ai mọi việc cũng đều thuận lợi.

Trong các bộ trung tinh của Tử Vi, chỉ có 3 đôi có tính cách đặc biệt là Xương Khúc, Long Phượng, Tả Hữu, được người đời tiếp đón chủ về văn học sáng giá, riêng bộ Xương Khúc phối hiệp với Khôi Việt là khoa bảng quyền uy. Xương Khúc đứng cặp với Âm Dương, dầu là vị trí lạc hãm cũng được cải tạo quang minh là những bậc uyên bác học gia. Khôi Việt có tính cách nổi bật cao siêu. Đứng cặp với Xương Khúc thì nêu cao văn tài để rồi chiếm địa vị đàn anh trên khoa trường.

Thiên Ất là gì?

Xưa nay thương nghe 2 chữ Độn Giáp hay Thái Ất thần số là một môn toán dịch lý thuyết đoán cát hung của mỗi sự việc. Vậy tại sao lại gọi là Độn Giáp hay Thái ất ?

Độn Giáp là đôn chữ Ất lên thay thế cho chữ Giáp là địa vị đoàn trưởng của 10 Thiên Can, để chữ Giáp luân lưu ẩn chỗ của 6 chữ Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quí ở 6 con Giáp Ti’, Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, Dần.

Thái ất cũng cùng một ý nghĩa là chữ Ất ngôi vị thứ nhì lên lãnh vai thủ trưởng của Giáp.

Thiên ất là ngôi vị thứ nhì kế cận ngôi cao quí thiêng liêng, là vị tối cao phụ tá ban phước lành (quí nhân) che chở cho những ai xét ra hợp lý mà tính đáng thương.

Những ai được Thiên Ất thủ mạng là những người đương nhiên không bao giờ là người Thái Tuế cũng như Tuế Phá. Người Thái Tuế là người sinh ra như để gánh vác một công việc gì cao cả tốt đẹp, phải gặp nhiều điều may mắn để tiếp đón nhận lãnh trách nhiệm, đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên mã làm hậu thuẫn. Hai phái này luôn luôn đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên Ất, tức là Khôi Việt đóng ở dương cung thì Thái Tuế, Tuế’ Phá phải ở âm cung, trái lại Thiên Ất ở âm cung thì Thái Tuế, Tuế Phá đứng ở dương cung. Chỉ còn 2 phái Thiếu Dương là người có linh tính nhạy cảm hơn người và Thiếu Âm là người thành thật mà bị thua thiệt, là ở cùng Khôi còn Việt chỉ có 2 tuổi Đinh Tỵ, Quí Sửu đứng chung Thái Tuế. Đau đớn cho tuổi Canh Dần Ngọ Tuất và Quí Dậu hoàn toàn thất bại vì Triệt thủ tiêu mất Khôi hoặc Long Phượng.

Vậy tình cảm người được Thiên ất quí nhân thủ mạng là tình cảm hoàn toàn không đắc ý. Ở địa vị thứ nhân mà đương nhiên thủ vai trò đoàn trưởng lo toan mọi việc có tính cách phước thiện. Cái gì trái với đạo lý nghịch luân thường là khẳng định bất khuất.

Người Thái Tuế là người định mệnh nặn ra để lãnh những nhiệm vụ sáng giá.

Người Thiên Ất là người sinh ra phụ giúp cho đời bằng hành động tích cực nhân nghĩa.

Trong Tử vi có rất nhiều hào thủ đức độ và từ thiện đứng đầu là Thiên Quan, Thiên Phúc quí nhân, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long đức, Phúc đức, Giải Thần, là một đoàn linh mục thượng toạ đầy đủ nhân hậu. Nhưng không sức mạnh quyền uy như Thiên Ất là ngôi vị ở ngay chính toà trực tiếp với vị tối cao ra lệnh cứu nhân độ thế. Việc cứu giải tai hoạ mọi sự đắc lực thành công dễ dàng hơn.

Phải chăng người lỗi lạc của Thiên Ất quí nhân nếu được trường hợp nào đắc cách hơn ai thì không thể không có giông tố phũ phàng vùi dập, bởi do vị trí nghịch lý âm dương mà Khôi Việt bị xếp đặt trong khuôn khổ. Nói chung, người được Thiên Ất quí nhân chiếu cố là người đã có sự đồng ý của định mệnh làm cho nghiêng ngửa để rồi Khôi Việt ra tay tế độ mới rõ rệt chân lý.

THIÊN ẤT QUÝ NHÂN (GỌI TẮT LÀ THIÊN ẤT, HAY QUÝ NHÂN)

Cách tra thiên ất quý nhân, can năm, can ngày đều tra được, lấy can năm tra bốn chi trong tứ trụ xem có gặp quý nhân không. Xong lại lấy can ngày tra bốn chi trong tứ trụ xem có gặp quý nhân không ( theo sách "Uyên hải tử bình"); gọi tắt là quí nhân (trong sách này ta viết tắt là TA hay QN).

Thiên Ất quý nhân là lấy Thiên Can của trụ ngày sinh làm chính rồi kết hợp với Địa Chi của 4 trụ để quan sát, cụ thể là:

Thiên Can ngày Giáp Ất Bính Đinh Mậu

Địa Chi

Sửu Hợi Hợi Sửu
Mùi Thân Dậu Dậu Mùi
Thiên Can ngày Kỷ Canh Tân Nhâm Quý

Địa Chi

Sửu Dần Tỵ Tỵ
Thân Mùi Ngọ Mão Mão

Điều này nghĩa là, người sinh vào ngày Giáp, Mậu, Canh mà trong Địa Chi của Bát tự có Sửu hoặc Mùi thì có được sao Thiên Ất quý nhân. Những trường hợp còn lại cũng suy ra tương tự.Giáp Mậu Canh gặp Sửu Mùi, At Kỳ gặp Tý Thân, Bình Định gặp Hợi Dậu, Nhâm Quý gặp Tý Mão, Tâm gặp Dần Ngọ.

Các sách tướng số đều cho rằng sao Thiên Ất quý nhân là một sao tốt, đem lại sự thông minh. Hơn nữa, nếu người nào có sao này trong mệnh số thì có thể biến hóa thành phúc do có quý nhân phù trợ.

Thìn tuất là chỗ cao nhất, quý nhân không gặp nên hai chi thìn tuất không có thiên ất quý nhân.

Ta chọn phương pháp của sách "Uyên hải tử bình", vì không những vì mặt tứ trụ mệnh lý học sách đó bàn sâu, mà trong thực tế cũng được thừa nhận rộng rãi, trong ứng dụng đã được chứng minh.

Thực tế chứng minh quý nhân can năm to hơn, quý nhân can ngày nhỏ hơn. Nếu trong tứ trụ can năm và can ngày đều có thiên ất quý nhân, thì đó là một quý nhân to, một quý nhân nhỏ; cho dù to hay nhỏ, chúng đều có tác dụng làm thiên ất quý nhân.

Thiên ất quý nhân lại chia ra quý dương, quý âm. Có hai cách chia:

Cách thứ nhất lấy sinh sau giờ tí làm quý dương, sinh sau giờ ngọ là quý âm;

Cách thứ hai theo tiết khí, lấy dần thân để chia âm dương: sau đông chí (bắt đầu từ tháng Dần) là quý dương, sau hạ chí (bắt đầu từ tháng Thân) là quý âm. Người sinh sau một khí (tiết, khí) dương gặp được quý dương là được thêm sức, sinh sau một khí âm gặp được quý âm là được thêm sức. Cho nên lấy hai tiết lệnh đông chí, hạ chí chia làm quý dương, quý âm là đúng lý.

Thiên ất quý nhân là cát tinh, là sao giải ách, sao cứu trợ. Sách "Tam mệnh thông hội" nói: "Thiên ất là thần trên trời, trong tử vi luôn ở bên ngoài cửa, sắp hàng ngang thái ất, làm những việc của thiên hoàng Đại đế, nên gọi là thiên ất. Thần ấy rất tôn quý, tất cả mọi hung sát đều phải lánh xa"

TAQN là văn tinh, mệnh có nó thì hay kề cận các bậc quyền quí; thông minh tháo vát, linh lợi, gặp hung hoá cát, gặp việc có người giúp; hào phóng, hay vui vẻ giúp người, tâm tư hiền lành, giao thiệp rộng rãi, được mọi người ủng hộ.

Nhưng nó kị nhất là:

  • gặp hình xung khắc hại, hoặc không vong; người gặp thế thì dù có cũng vẫn là hoạ, nguồn phúc giảm đi, suốt đời vất vả lao tâm.
  • 4T có nhiều tử, tuyệt, bệnh, suy, mộc dục: phúc lực cuả sao giảm;

Thiên ất quý nhân tốt nhất là được sinh vượng, được cát tinh trợ giúp; Sách " Chúc thần kinh" viết:

"Thiên ất quý nhân nếu gặp sinh vượng, thì phúc lực tăng gia; rất ít bệnh tật; diện mạo hiên ngang, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt mà thẳng thắn, ôn hoà, đức độ, được mọi người yêu mến khâm phục.

  • nếu đi với (tức cùng trụ với) kiếp sát (*) thì đa mưu túc kế; dáng điệu uy nghi;
  • đi với quan phù (*) thì văn chương xuất chúng, hùng biện;
  • đi với kiến lộc (LQ) thì giỏi văn chương nghiã lý, ân huệ khắp nơi, là người quân tử;
  • nếu lại gặp được thiên đức, nguyệt đức thì quý vô cùng: thông minh trí tuệ.
  • nếu tọa vào can ngày thì suốt đời thanh cao.
  • 4T có Thiên Ất và Khôi canh: khí chất hiên ngang; học giỏi, được mọi người tôn kính;

Thiên ất quý nhân là thần tốt nhất trong mệnh. Ai có nó thì vinh hiển, công danh sớm đạt, dễ thăng quan. Nếu mệnh thừa vượng khí thì có thể đạt đến danh tướng, công hầu. Đại, tiểu vận hành đến vận/năm đó thì nhất định sẽ tốt trên tất cả mọi phương diện: quan được thăng quan, người thường cũng gặp tin vui, nói chung đối với bất cứ ai mọi việc cũng đều thuận lợi.

Nhưng nếu Thiên ất mà tử tuyệt. thì tính tình cố chấp; ngoại trừ nếu có thái cực sẽ đỡ

Ví dụ 1: Giờ mùi, ngày 18 tháng 8 năm 1985

 

 

NHẬT

 

Ất Sửu

Ất Dậu

Giáp Tuất

Tân Mùi

QN

 

 

QN

Tra quý nhân của can năm Ất: trong tứ trụ không có địa chi “Tý, Thân”  nên can năm không có quý nhân;

Tra quý nhân của can ngày Giáp: “Giáp mậu đi với Sửu Mùi”, chi năm chi giờ có Sửu Mùi, nên can ngày có 2 quý nhân. Nếu chỉ gặp Sửu, hoặc chỉ gặp Mùi thì can ngày chỉ có 1 quý nhân.

Ví dụ 2: Sinh giờ hợi, ngày 23, tháng 11 năm 1991

 

 

NHẬT

 

Tân Mùi

Canh Tý

Nhâm Thân

Tân Hợi

QN

 

 

QN

 

Tra can năm Tân: không có địa chi " dần, ngọ" nên không có QN;

Tra can ngày Nhâm: không có địa chi "mão, tị", nên không có QN;

vậy 4T này không có quý nhân. Chưa thôi, chúng ta hãy xem thai nguyên, cung mệnh có QN hay không. Ở ví dụ này thai nguyên (*) là tân mão, cung mệnh (*) là giáp ngọ, nên: can năm là Tân gặp Ngọ của cung mệnh là quý nhân; can ngày là Nhâm gặp Mão của thai nguyên là quý nhân. vậy Thai nguyên và cung mệnh gặp quý nhân, có thểbù đắp chỗ khiếm khuyết của tứ trụ.

Nếu can năm, can ngày, thai nguyên và cung mệnh đều không có quý nhân thì khi gặp việc xấu hoặc đại nạn sẽ khó mà khắc phục. Lúc đó phải dựa theo can năm, can ngày sinh của người ấy để tìm những người gần đó có tuổi phối hợp với can năm, can ngày của tứ trụ thành quý nhân, để giúp đỡ, thì may ra sẽ đỡ được phần nào (đây cũng là một cách hoá giải tai nạn).

Nếu vốn có quý nhân thì dù biết được hay không, tự nhiên khi gặp khó khăn là có người giúp, Ví dụ: bị sắp chết đuối mà có người giúp; người giúp đó cũng gọi là quý nhân. Ví dụ:Quí nhân trong tứ trụ là sửu, mùi chẳng hạn, thì điều kỳ lạ là ân nhân ngoài đời thường cũng là người có tuổi sửu hoặc tuổi mùi!