Ảnh Hưởng Của Sao Hóa Kỵ Đối Với Chủ Tinh (Chính Tinh)
Sao Hóa Kỵ, một thành viên quan trọng của Tứ hóa, nổi bật với tính chất phức tạp và đôi khi bị hiểu nhầm là xấu. Hóa Kỵ không chỉ gắn liền với những khó khăn, thị phi và hiểu lầm mà còn là một phần không thể thiếu trong sự vận động của các sao chủ tinh khác. Mặc dù thường bị xem là tiêu cực, Hóa Kỵ lại là yếu tố kích thích, giúp làm nổi bật những phẩm chất của Hóa Khoa, Hóa Quyền và Hóa Lộc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của Hóa Kỵ đối với các sao chủ tinh không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mà còn khám phá những bài học quý giá trong cuộc sống. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu sâu sắc về sao Hóa Kỵ và cách nó định hình số phận qua mối quan hệ với các chủ tinh trong tử vi.
Tác động của Thái Dương – Hóa Kỵ
Thái Dương – Hoá Kỵ làm những nghề dính líu đến thị phi quan tụng hoặc gây dư luận ồn ào thì chính mình mới đỡ trở thành nạn nhân cuả thị phi quan tụng và đàm tiếu phê bình.
Ví dụ: Thầy kiện quan toà, cảnh sát mật vụ, thông tin báo chí, quảng cáo viên. Làm những nghề thông thường dễ bị chiêu oán đả kích.
Thái Dương – Hoá Kỵ dở, hay cũng còn tuỳ thuộc những sát tinh đi kèm. Thái Dương – Hoá Kỵ không gặp sát tinh lại được Tả – Hữu thì gian lao phấn đấu mà nên đại nghiệp, như làm chính trị hoặc phấn phát mạnh rồi nhiều kẻ ganh ghét. Còn như gặp nhiều sát tinh kèm vào thì nhiễu lắm, chẳng những thị phi, chiêu oán mà còn bị họa nạn.
Cách Cự – Nhật có Hoá Kỵ không phải là dở nếu được Lộc Tồn đứng cùng, vào ngành ngoại giao, pháp lụât, làm quảng cáo, bán hàng càng cạnh tranh càng thành công.
Trường hợp Thái Dương Ngọ cung dù có Lộc Tồn mà thấy Hoá Kỵ thì cao danh vọng lắm đầy gian nan nhiều, bị vận xấu xuống đến đất đen.
Thái Dương – Thiên Lương đứng với Hoá Kỵ nếu có Kiếp – Không, Tuần – Triệt đi rao giảng đạo lý tôn giáo sẽ gây thanh vọng. Thái Dương – Hoá Kỵ mà bị Kình Dương, Thiên Hình: hay bị kiện tụng hoặc chạm trán với luật pháp.
Thái Dương – Hoá Kỵ vào cung lục thân đều không hay, nhất là đối với người sinh vào ban đêm, nếu thấy cả sát tinh nữa thì sinh ly tử biệt. Mệnh nữ mà có Thái Dương – Hoá Kỵ ở Phu phải mấy bận dở dang, bị cướp chồng hay đi cướp chồng người, thêm Đào Hoa điều trên nặng nữa.
Cung Phụ Mẫu xuất hiện Thái Dương – Hoá Kỵ không thuận với bố mẹ, hoặc hay bị kẻ trên nghi ngờ và chèn ép. Thái Dương – Hoá Kỵ vào Tật Ách bệnh về thận, về đường tiểu hoặc bệnh mắt. Dương – Kỵ đóng Mệnh cũng thấy Riêu, Hình nếu Thái Dương hãm có thể bị mù. Thái Dương – Hoá Kỵ hãm cung vào Tật Ách của số nữ hoặc đóng cung Tử Tức có trở ngại trong vấn đề sinh sản.
Tác động của Liêm Trinh – Hóa Kỵ
Liêm Trinh là máu huyết là tinh thần hưởng thụ. Liêm Trinh là sao của những biến đổi đột ngột. Liêm Trinh – Hoá Kỵ dễ đưa đến một tai nạn có đổ máu thường thấy như giải phẫu, tai nạn xe cộ, tên bay đạn lạc, nhất là đứng cùng với sao Thất Sát ở Sửu/ Mùi.
Liêm Trinh – Hoá Kỵ gặp Đào Hoa nhiều phiền luỵ về luyến ái. Nữ Mạng Liêm – Kỵ lại có cả Xương hay Khúc ắt phải rỏ lệ thương tâm.
Liêm – Kỵ đóng Tài Bạch là chứng triệu tiêu hao tiền bạc do một quan hệ tình duyên. Tỷ dụ: Vợ ly dị phải chia của, vì lấy vợ mà bị rút một phần của cải gia tài. Như vậy ngay cả ở Tài Bạch, Liêm Trinh vẫn dính líu đến vấn đề huyết duyên. Bởi vậy hễ thấy Liêm Trinh – Hoá Kỵ thì hãy cứ đặt căn bản trên huyết duyên mà luận đoán.
Liêm – Kỵ đóng vào cung lục thân thì luôn luôn bất hoà với bố mẹ với anh em, với bạn bè, với vợ con. Liêm Trinh không Hoá Kỵ mà có Xương Khúc vào vận hạn có thể đoán là một tin vui như đẻ con, phục hồi sức khoẻ, việc lấy vợ lấy chồng của những người thân. Liêm – Kỵ đóng Tật Ách khi bệnh hoạn dễ đưa đến giải phẫu.
Tác động của Thái Âm – Hóa Kỵ
Thái Âm không ngại Hoá Kỵ như Thái Dương. Vì lẽ Thái Âm chủ ẩn tàng cùng chất với Hoá Kỵ. Thái Âm gặp Hoá Kỵ không bị tình cảnh oán ghét như Thái Dương. Có thể mang một tâm trạng đau buồn nào đó, không do áp lực từ bên ngoài. Khi chỉ là chuyện nội tâm thì cũng dễ khắc phục.
Thái Âm đắc địa ở Dậu có Hoá Kỵ lại biến thành đám mây ngũ sắc. Nhưng Thái Âm Mão hãm không tốt. Nhất là lại bị Kình, Đà hiệp Kỵ: nguy hiểm. Thái Âm – Hoá Kỵ ở hãm cung đóng Tài Bạch đầu tư thường thua thiệt do thiếu sáng suốt, tính toán không kỹ.
Riêng Thái Âm Hợi mà có Hoá Kỵ thì ban đầu dù khó khăn nhưng cuối cùng lại hết sức thuận lợi bởi những đột biến không ngờ. Thái Âm chủ ẩn tàng có khuynh hướng tinh thần hơn Thái Dương chỉ chú ý đến bộc lộ thực tế.
Thái Âm – Hoá Kỵ nếu thêm sát tinh thành ra một khuyết hãm trên tinh thần. Cho nên Âm – Kỵ không nên đóng cung Phúc Đức nhất là đối với nữ mạng. Âm – Kỵ tại Phúc Đức người con gái ý chí yếu đuối dễ bị đường mật dụ dỗ lường gạt mà một lần sa chân thành thiên cổ hận.
Thái Âm – Hoá Kỵ ở cung Phúc lại thấy cả Xương Khúc, Đào Hoa có thể đoán là số hồng nhan bạc mệnh. Thái Âm tại Tỵ vào đất hãm gặp Cự đồng cung Sửu, tình tự càng bối rối có thể vì xung động nhất thời mà ảnh hưởng đến cả một đời.
Âm – Kỵ nếu có họa thì họa thường do mình khởi lên, khác với Dương – Kỵ bị ngoại cảnh người đời ganh ghét. Thái Âm – Hoá Kỵ ở thế hãm đóng lục thân cung mà lại là người sinh ban ngày thì hoàn toàn vô duyên với lục thân.
Các nhà Tử Vi Trung Quốc bảo: Âm – Kỵ đóng cung Thân (Mệnh /Thân) là mẹ hay cha mất sớm từ lúc còn nằm nôi, nếu có cả Linh – Hoả càng mau. Âm – Kỵ cung Nô Bộc bị hại ngầm bởi bạn bè, người trên, người đồng liêu, thủ hạ. Thái Âm – Hoá Kỵ đóng Tật Ách hay Mệnh ở hãm địa phải đề phòng đôi mắt.
Tác động của Cự Môn – Hóa Kỵ
Cự Môn chủ khẩu thiệt gặp Hoá Kỵ càng tăng thêm cái phiền cái họa về khẩu thiệt, còn đưa đến kiện tụng cò bớt. Cụ Môn – Hoá Kỵ Mệnh cung thành cặp hung thần làm cho bị thương bị giải phẫu.
Cự – Kỵ đóng Mệnh thêm sát tinh ngay từ lúc nhỏ đã thấy, đã gặp những điều đắng cay như mồ coi, bố mẹ phân ly… Cự – Kỵ, Hồng – Đào vợ chồng chia ly. Cự – Kỵ đóng Tài Bạch làm thày giáo, làm người bán hàng mà có thêm Hoá Lộc thì nhờ nói mà ra tiền.
Mệnh cung Cự – Kỵ không thêm sát tinh, có Lộc – Quyền không nên xuất đầu lộ diện, đừng thích hư danh sẽ yên ổn mà ngấm ngầm tiến tới thành công. Cự Môn tuy là cái miệng nhưng hễ thấy Hoá Kỵ thì đừng nên làm kịch sĩ hay ca sĩ để mà hứng chịu la ó của khán thính giả.
Cự – Kỵ đắc địa được Hình, Quyền làm thầy kiện đắc lực, hoặc điều khiển cơ quan mật vụ cũng hay. Tất cả chỉ vì Cự Môn là ám diệu mà Hoá Kỵ lại chủ ẩn mật tiềm tàng.
Cự – Kỵ đóng Phụ Mẫu gặp Hình hay Đà không thể gần gũi hoà hợp với mẹ cha. Cung Phu Thê rất ngại thấy Cự Môn, Hoá Kỵ thế nào cũng tan vỡ. Có cả Đào Hoa nữa thì thành tình tay ba.
Cung Huynh Đệ có Cự – Kỵ khó lòng hợp tác với ai mà yên lành. Cự – Kỵ vào cung Tật Ách bị bệnh thần kinh hay xương tuỷ. Cự Môn cũng là ống thực quản từ miêng trôi vào dạ dày cũng đưa đến bệnh về yết hầu.
Tác động của Thiên Đồng – Hóa Kỵ
Nói đến Thiên Đồng – Hoá Kỵ lại phải nhắc tới hai chủ trương khác nhau trên tuổi Canh. Một phe chủ trương Đồng là Phúc tinh thì không Hoá Kỵ. Một phe chủ trương Đồng – Kỵ là tình trạng có phúc mà không được hưởng.
Một phe đứng giữa bảo: Tuổi Ất Tứ Hoá đã an theo Cơ, Lương, Tử, Âm nghĩa là Hoá Kỵ đã một lần đứng với Thái Âm rồi, sao qua tuổi Canh lại an theo Nhật, Vũ, Đồng, Âm để Thái Âm đứng với Hoá Kỵ thêm lần nữa?
Lập luận trên có phần nào ngả theo lập luận Kỵ phải đứng với Thiên Đồng ở tuổi Canh, nhưng đặt căn bản trên sự hợp ý của an sao. Không hẳn là đã vững vì Tứ Hoá không một Hoá nào được an với Thất Sát, trong khi an bốn lần với Vũ Khúc, một lần với Thiên Phủ, hai lần với Tử Vi…, Xương Khúc đi với Tứ Hoá hai lần, mà Tả Hữu một bận sánh vai với Hoá Khoa trong khi Thái Âm có mặt bốn lần bên Tứ Hoá, nếu kể thêm cả tuổi Canh là năm. Vậy thì rõ ràng Tứ Hoá không an theo lối chia đều. Thật ra thì ta không tìm thấy được lý do tại sao cổ nhân căn cứ vào đâu mà an Tứ Hoá cho thập Can như vậy?
Khi Thiên Đồng phải đi với Hoá Kỵ thì không bao giờ Thiên Đồng còn đi với Hoá nữa. Ở đây tôi vẫn biên chép những luận cứ về Đồng – Kỵ kèm với Đồng – Khoa để độc giả tự phán xét lấy. Ngoài ra nếu đưa Thiên Đồng đến bên Hoá Kỵ thì Thái Âm sẽ có hai bận đứng chung với Hoá Khoa thì sao?
Không có trọng tài đủ thẩm quyền định đoạt. Riêng tác giả cuốn sách này theo chủ trương Đồng không Kỵ. Với những người chủ trương Thiên Đông – Hoá Kỵ lập luận về chúng ra sao?
Đồng – Kỵ đóng Mệnh luôn luôn tâm ý thống khổ. Đồng – Kỵ vào Phúc Đức cung cũng vậy, tâm ý phiền muộn. Nhưng Thiên Đồng – Hoá Kỵ ở Phúc Đức hay Mệnh cung mà có Địa Không, Địa Kiếp lại biến ra cách khác hẳn, có những sáng kiến độc đáo, mưu chước khôn lường, Nếu lại có cả (Âm Sát), Thiên Riêu sẽ thành một tay đại gian hùng.
Đống – Kỵ đóng lục thân không cung nào được xem là tốt đẹp. Đồng – Kỵ vào Tật Ách bệnh kéo dài không khỏi, ảnh hưởng đến sự hưởng thụ cho cuộc sống.
Tác động của Thiên Cơ – Hóa Kỵ
Thiên Cơ là sao của mưu tinh kế hoạch, Hoá Kỵ chủ ẩn tàng và âm thầm. Thiên Cơ – Hoá Kỵ kể là thái quá thành ra mưu thâm họa diệc thâm. Trong sách Hồng Lâu Mộng có câu:
“Cơ quan toán tận thái thông minh
Toán khứ liễu khanh đích mệnh”
Nghĩa là tính toán thâm trầm bằng trí tuệ cao siêu, rút cục đưa đến cái chết cho chính mình. Bởi thế Cơ – Kỵ đóng Mệnh hay Phúc Đức nếu vào doanh thương có ngày nhầm chỉ một lần mà mất hết cơ nghiệp.
Người Cơ – Kỵ hãy sống thanh thản bình thường, mọi sự phó thác cho số mệnh ung dung mà thành công. Nói tóm lại là đừng dùng mưu kế nhiều. Cái ưu điểm của Thiên Cơ là quyền biến, nhưng khuyết điểm lại cũng nằm trong quyền biến ấy. Vì quá thông minh quyền biến nên đôi lúc thành ra kẻ hoạt đầu khiến người nghi kị. Như Nguyễn Hữu Chỉnh trong bụng đầy mưu cơ cuối cùng bị Tây Sơn bỏ rơi mà chết giữa biển.
Kỵ đứng với Cơ khiến Cơ càng bị nghi kỵ hơn. Cơ – Kỵ thường bị người đời tranh cạnh nói xấu nói vu, bất cứ vào lãnh vực nào cũng luôn luôn phải chống đỡ, cuộc sống mệt mỏi.
Nữ mạng Thiên Cơ – Hoá Kỵ mà gặp Hoả – Linh các Tử Vi gia Trung Quốc cho là số có khuynh hướng tự sát. Cổ xưa, về làm dâu mà số như thế sẽ bị cả nhà chồng lẫn chồng ghét bỏ không lối thoát mà tự sát.
Thiên Cơ – Hoá Kỵ đóng lục thân nói lên điều sơ ly khó thân ái lâu bền, nhưng trước khi sơ ly lại rất đằm thắm bởi vậy sự sơ ly của Cơ – Kỵ thường đem tới tâm lý tuyệt vọng. Cơ – Kỵ làm cho chuyện bé xé thành chuyện to, chuyện chẳng ra sao mà nên thù hận.
Thiên Cơ – Hoá Kỵ đóng Tật Ách hay bị mất ngủ, thần kinh suy nhược, mất trí nhớ. Thiên Cơ – Hoá Kỵ cũng dễ bị bệnh gan, ưu tư suy nghĩ nhiều ắt gan hư.
Tác động của Vũ Khúc – Hóa Kỵ
Sao Vũ Khúc là tài tinh, Vũ Khúc đi với nhau làm ăn dung dị phấn phát, nhưng kèm theo sự phấn phát là những phiền luỵ. Ví dụ sa thải người làm mà bị thù oán, phải cạnh tranh mà mất lòng người; làm việc mà đồng liêu ganh ghét; vùi đầu vào công tác quên cả vợ con khiến vợ con xa cách.
Vũ – Kỵ đóng Mệnh hay Tài Bạch chỉ có làm chuyên viên giỏi nghề nghiệp là yên ổn. Vũ – Kỵ sợ thấy Không, Kiếp làm cho hao tổn tiền tài qua lừa gạt.
Vũ Khúc – Hoá Kỵ mà gặp Linh Tinh, Văn Xương, Đà La thành ra cách Linh – Xương – Đà – Vũ thêm Kỵ xấu gấp bội. Cách này sẽ vì tự cao tự đại mà thất bại nặng, sụp đổ cả một cơ sự nghiệp.
Cách Vũ – Kỵ – Linh -Xương – Đà đóng Phúc Đức cung đưa đến tư tưởng cực đoan làm hỏng đời mình kiểu Robespierre của cách mạng Pháp.
Vũ – Kỵ vào cung lục thân mà có cả hình sát tinh nữa thì những người thân có ai bị phá sản. Riêng đóng Thê cung, vợ phá của. Vũ – Kỵ đóng Tật Ách thường bị bướu mà phải giải phẫu.
Tác động của Tham Lang – Hóa Kỵ
Khi Tham Lang đứng với Hoá Kỵ thì đương nhiên Phá Quân đứng cùng Hoá Lộc (cho người tuổi Quý), Nhờ vậy Hoá Kỵ không tác hại nhiều vì lẽ Phá Quân rất ăn ý với Hoá Lộc.
Tham Lang – Hoá Kỵ đắc địa lại hội thêm được cát tinh, đôi khi chỉ nói bâng quơ mà ra cơ hội, chỉ làm chơi mà ăn thiệt, chỉ ném hột cam xuống đất không có ý trồng mà nên cây.
Tham Lang – Hoá Kỵ đứng với Linh Tinh hay gặp Hoả, Linh dễ hoạch phát, bạo phát. Không sát tinh (Kình Đà, Không Kiếp, Thiên Hình) mọi sự hanh thông như trò rỡn. Có sát tinh bạo phát, bạo tàn.
Tham Lang – Hoá Kỵ ở cung Tí hay Tỵ mà số nữ rất không nên, gái bạc tình. Tham – Kỵ đóng Phu Thê, hôn nhân thất bại. Tham Lang – Hoá Kỵ trên căn bản ý nghĩa là tranh đoạt. Tranh đoạt mang hai hình thế, bị động hoặc chủ động. Gặp hình sát thì ở thế bị động. Gặp nhiều cát tinh thành thế chủ động.
Tham – Kỵ đi với Đào Hoa, Văn Xương, tạo thành tranh đoạt trên tình trường. Nữ mạng mà bị đặt vào sự tranh đoạt ở tình trường thì chẳng có thể nào mà tốt lành được.
Trường hợp Hoá Kỵ đứng với Tham Lang mà bị giáp Kình, Đà hoặc tam hợp Kình Đà thành ra cách Dương – Đà – Kiếp – Kỵ ra đời luôn luôn ở vào bị động, có danh có chức chăng nữa cũng chỉ là hư danh rồi một ngày nào đó lâm vào cảnh quyền rơm vạ đá.
Tham – Kỵ đóng Phúc Đức hay Phu Thê cung trong lòng ấn dấu nỗi đau thương mà không nói ra được. Tham Lang – Hoá Kỵ cùng Linh, Hoả vào lục thân cung chủ về phân ly trong một thời gian nào đó.
Tham – Kỵ đứng với Đà La đóng Tử Tức hay Huynh Đệ khó hoà hợp, tư tưởng nếp sống hoàn toàn bất đồng. Tham Lang – Hoá Kỵ đóng Nô Bộc hay bị tay chân thủ hạ phản bội hoặc cạnh tranh. Tham – Kỵ đóng Tật Ách số nữ bệnh về bộ phận sanh đẻ.
Tác động của Văn Xương – Hóa Kỵ
Với người tuổi Tân, khi Văn Xương gặp Hoá Kỵ thì Văn Khúc lại đứng với Hoá Khoa (an theo Cự, Nhật, Khúc, Xương). Cả hai hội tụ mà vào Mệnh tất gặp Cự Môn, Cự – Kỵ gây cản trở nên dù có Xương Khúc, Hoá Khoa học vấn cũng không thể thành công đến tuyệt đỉnh mà chuyển thành cách dị lộ công danh. Dị lộ đường đi quanh co vất vả hơn, cuộc đời lận đận hơn.
Văn Xương – Hoá Kỵ cũng đưa đến tình trạng không tựa được vào khoa danh để dành quyền chức. Hoặc thành tựu một nấc khoa danh nào đó mà chẳng được dùng đến. Đỗ Luật, đỗ văn chương rồi đi làm doanh nghiệp, chẳng đỗ gì đăng lính rồi lên tướng.
Xương – Kỵ đứng với Không – Kiếp hay gặp Không – Kiếp rất không tốt khi vào Tài Bạch cung chỗ dung thân thường bị phá sản, hoặc do nhầm lẫn của chính mình mà gây thành sự phiền hà trên tiền bạc.
Người Xương – Kỵ cũng thường bị thất ước, cho người vay mượn người không trả mình vay mượn của ai nhỡ nhàng không trả nổi hay không trả được đúng hạn kỳ.
Xương – Kỵ là sự thất ước, đứng với Đào Hồng nam hay nữ hay bị lừa gạt trên tình ái, Xương – Kỵ vào vận hạn, mong ngóng một tin tức, một lời hứa đều bị cuội.
Xương – Kỵ đóng cung lục thân chủ sơ kỵ, nếu lưu niên vận hạn vào cung Phụ Mẫu mà gặp Xương – Kỵ lại thấy các sát tinh khác nữa thì có tang tóc.
Xương – Kỵ đóng Phu Thê cũng nên vợ nên chồng tự nhiên, không hôn lễ hoặc không được đồng ý của hai bên cha mẹ. Cung Nô có Xương – Kỵ đứng cùng các sát tinh thường bị liên luỵ vì kẻ dưới. Vào cung Huynh Đệ anh em bất hoà.
Xương – Kỵ đóng Tất Ách hay bị loang, thẹo, đứng với Nhật Nguyệt có cườm mắt hay mắt kéo màng.
Tác động của Văn Khúc – Hóa Kỵ
Văn Khúc – Hoá Kỵ cũng như Văn Xương – Hoá Kỵ dễ bị thất hứa, nhưng Văn Khúc vốn chủ về lời không như Văn Xương chủ về từ chữ.
Khúc – Kỵ ưa ngôn quá kỳ thực, vận hạn gặp Khúc – Kỵ bị gạt gẫm bớt những lời hứa hão, những kế hoạch ba hoa. Khúc – Kỵ đóng cung Phúc Đức thường vì thị tài mà thất bại. Cự Môn gặp Khúc – Kỵ thì đôi khi lại vì tai tiếng mà nổi danh mà danh tốt chứ không phải danh xấu.
Khúc – Kỵ vào các cung lục thân cũng như Văn Xương – Hoá Kỵ kể là không tốt. Khúc – Kỵ vào Phối cung hay xa chồng xa vợ, hoặc lúc cưới, chồng hoặc vợ vắng mặt. Khúc – Kỵ cùng đóng cung Tật Ách với Phá Quân số bị thuỷ ách. Thủy ách gồm có đi mưa mà sưng phổi, đắm thuyền, bơi lội đuối sức.
Những lời luận đoán về Tứ Hoá trên đây là căn cứ vào bố trí đồng cung không phải tính qua tam hợp. Tỷ dụ Cự Môn đóng Tí mà đứng bên Hoá Kỵ ở Mệnh cũng Tí (hay Phúc Đức hay Quan Lộc) thì Kỵ không thành hung thần, nhưng nếu Cự Môn Ti mà gặp Hoá Kỵ theo thế tam hợp hoặc xung chiếu thì lại phiền.