Vua Hùng là ai? Tìm hiểu lịch sử 18 đời vua Hùng và các truyền thuyết
Thời đại của các vua Hùng là một giai đoạn đầy ấn tượng và lịch sử, là nền móng vững chắc cho việc xây dựng nên đất nước Việt Nam. Theo những ghi chép trong sử sách, 18 đời vua Hùng không chỉ là những nhà lãnh đạo vĩ đại mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, lòng yêu nước và sự không khuất phục trước bất kỳ thách thức nào.
Từ thời kỳ nhà nước Văn Lang, với hình ảnh huyền thoại về Âu Cơ và Lạc Long Quân, đến sự phát triển của nền văn minh sông Hồng và các nền văn hóa tiền Đông Sơn, các vua Hùng đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố và phát triển đất nước. Họ không chỉ là những người Lãnh Đạo mà còn là những người thầy, những người dẫn đường, chỉ lỗi cho toàn dân tộc trên con đường vươn lên.
Vị trí của các vua Hùng không chỉ là lãnh tụ chính trị mà còn là niềm tự hào của người dân Việt Nam về một nền văn minh có bản sắc độc đáo và giàu truyền thống. Đạo lý "uống nước nhớ nguồn" đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn của mỗi người Việt, và việc tổ chức lễ hội vào ngày giỗ tổ Hùng Vương hàng năm vào ngày 10/3 Âm lịch là cách thể hiện sâu sắc lòng biết ơn và tôn kính đối với các vị Vua Hùng.
Những vua Hùng không chỉ là những nhân vật trong lịch sử mà còn là biểu tượng vững chắc của sức mạnh và lòng kiêng nể của dân tộc Việt Nam, là nguồn cảm hứng vĩ đại để con cháu tiếp tục xây dựng và bảo vệ đất nước như lời Hồ Chí Minh đã căn dặn "Các Vua Hùng Đã Có Công Dựng Nước, Bác Cháu Ta Phải Cùng Nhau Giữ Lấy Nước". Thể hiện tình đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam mà không phải quốc gia nào cũng có.
Cùng Xem Số Mệnh quay lại lịch sử để hiểu rõ hơn về các vị Vua Hùng cũng như các truyền thuyết và hiểu rõ được công đức của 18 vị Vua Hùng đối vói việc xây dựng và bảo tồn nước Việt có như ngày hôm nay.
Vua Hùng là ai?
Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương (-- 2879 TCN) là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt - những triều đại được cho là được lập ra hơn 4.000 năm trước. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2.622 năm, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) trước Công Nguyên. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính.
Một số văn bản cổ mô tả lãnh địa của Hùng Vương trải dài về phía nam từ Động Đình đến miền Trung Việt Nam ngày nay; những người khác chỉ ra rằng chủ quyền của ông có thể chỉ tập trung xung quanh địa điểm Huế hiện nay. Theo các ghi chép, Hùng Vương, tên có nghĩa là Mạnh Trưởng, hay Trưởng Lão Mạnh, là con trai của Lạc Long Quảng trong thần thoại. Vua Hùng Vương chia đất nước thành các quận hành chính và giao cho các công chức và sĩ quan quân đội cai quản.
Câu chuyện lịch sử vua Hùng không có trong chính sử mà nằm trong các truyền thuyết dân gian của người Việt được kể lại qua nhiều đời. Theo truyền thuyết, có 18 đời vua Hùng và các vua Hùng là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương thứ I sinh năm 2879 trước công nguyên, Hùng Vương thứ XVIII lại mất năm 258 trước công nguyên. Dưới đây là 18 vị vua Hùng bao gồm:
Theo Đại Việt sử lược và nhiều tài liệu khác, triều đại Hùng Vương được truyền qua 18 đời, gồm những vị sau.
1. Kinh Dương Vương (涇陽王), húy Lộc Tục (祿續), tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) lên ngôi năm 41 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 TCN) đến Đinh Hợi (2794 TCN).
2. Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君), húy Sùng Lãm (崇纜), tức Hùng Hiền Vương (雄賢王), sinh năm Bính Thìn (2825 TCN), lên ngôi 33 tuổi, ở ngôi tất cả 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 TCN) đến năm Bính Thìn (2525 TCN).
3. Hùng Quốc Vương (雄麟王), húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 TCN) lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 TCN) đến 2253 TCN.
4. Hùng Diệp Vương (雄曄王), húy Bửu Lang thuộc chi Chấn (支震), lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 TCN), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 TCN) đến năm Mậu Thìn (1913 TCN).
5. Hùng Hy Vương (雄犧王 phần bên trái chữ "Hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛) , húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 TCN), lên ngôi khi năm 59 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 TCN) đến Mậu Tý (1713 TCN).
6. Hùng Huy Vương (雄暉王), húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740TCN), lên ngôi khi 29 tuổi, ở ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TCN).
7. Hùng Chiêu Vương (雄昭王), húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 TCN), lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 TCN).
8. Hùng Vĩ Vương (雄暐王), húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TCN).
9. Hùng Định Vương (雄定王), húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 TCN), lên ngôi khi 45 tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 TCN.
10. Hùng Hi Vương (雄曦王), húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 TCN.
11. Hùng Trinh Vương (雄楨王), húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 TCN), lên ngôi khi 51 tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 TCN) đến năm Bính Tuất (1055 TCN).
12. Hùng Vũ Vương (雄武王), húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 TCN), lên ngôi khi năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TCN).
13. Hùng Việt Vương (雄越王), húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 TCN), lên ngôi khi 23 tuổi, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 TCN) đến Đinh Mùi (854 TCN).
14. Hùng Anh Vương (雄英王), húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TCN) lên ngôi khi 42 tuổi, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 TCN.
15. Hùng Triệu Vương (雄朝王), húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 TCN) đến năm Canh Thân (661 TCN).
16. Hùng Tạo Vương (雄造王), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TCN), ở ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TCN) đến năm Nhâm Thìn (569 TCN).
17. Hùng Nghị Vương (雄毅王), húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 TCN) lên ngôi khi 9 tuổi, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 TCN) đến năm Nhâm Thân (409 TCN).
18. Hùng Duệ Vương 雄睿王, sinh năm Canh Thân (421 TCN), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN).
Vậy các vị vua Hùng gắn với những sự kiện lịch sử gì của đất nước? Cùng tìm hiểu lịch sử 18 đời vua Hùng trong phần tiếp theo nhé!
Sự tích về vua Hùng
Ngày xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân lúc đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh thì phải lòng và lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông minh nên rất được Đế Minh yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi (anh trai Lộc Tục) là con nối ngôi, cai quản phương Bắc là nước Xích Thần và phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, các bộ tộc Bách Việt, gọi là nước Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương khi xuống Thủy phủ, đã lấy con gái Long Vương Động Đình Quân tên là Thần Long Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước Xích Quỷ, còn Kinh Dương Vương không biết rõ đã đi đâu sau khi truyền vị. Đế Nghi truyền ngôi cho con trai là Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai nhân thiên hạ vô sự mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu con gái của mình là Âu Cơ ở lại đó.
Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến hóa thành chàng trai phong tú mỹ lệ, Âu Cơ lúc này mới đem lòng cảm mến, Lạc Long Quân liền rước nàng về núi Long Trang. Hai người ở với nhau một năm, sinh ra bọc trăm trứng, sinh ra trăm người con trai anh dũng phi thường.
Lạc Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ vốn là người Bắc quốc, nhớ nhà liền gọi Long Quân trở về. Âu Cơ nói với Lạc Long Quân:
"Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh được một trăm con trai mà không gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng, không vợ, một mình vò võ".
Lúc này, Lạc Long Quân mới bảo rằng:
"Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc; nàng là giống Tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp mà lại có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về Thủy phủ, phân trị các xứ, năm mươi con theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau".
Âu Cơ cùng năm mươi người con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người con trưởng lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương
Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu.
Công lao của Vua Hùng
Lãnh thổ của nước Văn Lang được xác định ở khu vực đồng bằng sông Hồng, phía đông bắc giáp với Âu Việt, phía tây bắc thuộc các tỉnh miền bắc Việt Nam và một phần đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay, phía đông giáp với biển Đông, phía tây tiếp giáp và chạy dọc theo dãy núi Hoàng Liên Sơn (thuộc Lào Cai, Sơn La ngày nay), phía nam giáp Hồ Tôn Tinh (hay Hồ Tôn), một quốc gia Champa cổ. Dân số của Văn Lang vào khoảng 40, 50 vạn người, chủ yếu phân bố ở khu vực trung du, hạ du sông Hồng và sông Mã.
Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố Chính, thần bộc, nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau cho đến hiệu là Hùng Vương không đổi.
Trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép phần đầu tiên đặt tên là Kỷ Hồng Bàng thị, 3 tiểu mục là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Sách Lĩnh Nam chích quái đặt tên là Truyện Hồng Bàng.
Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục: Theo sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng chép. Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, khai khẩn ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc Vương, người giúp việc là Lạc Tướng: đều dùng ấn đồng thao xanh. Nước gọi là Văn Lang. Phong tục thuần hậu, mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt nút dây làm dấu ghi nhớ; truyền được mười tám chi.
Có một số nguồn sử học viết về lãnh thổ của vua Hùng, phía tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, là nhầm lẫn với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết của người Bách Việt cổ. Nước Văn Lang thuộc tộc người Lạc Việt chỉ là một trong số những tộc người Bách Việt, và cũng là tổ tiên của người Kinh ngày nay. Lạc Việt cùng với Âu Việt là 2 tộc người Bách Việt sống tại vùng đất phía nam. Sau này An Dương Vương (hay Thục Phán), vua nước Âu Việt (nằm ở phía tây bắc nước Văn Lang), đánh bại vua Hùng của nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc. Dân số Âu Lạc thời đó cũng chỉ khoảng 70 vạn, 80 vạn người. Nếu lãnh thổ Văn Lang muốn giáp Ba Thục, Tứ Xuyên và Hồ Động Đình, Hồ Nam thì phải bao gồm cả các tỉnh Quý Châu (diện tích 176.167 km²) và Hồ Nam (diện tích 210.000 km²), phần lớn tỉnh Vân Nam (diện tích 394.000 km²), một phần tỉnh Quảng Tây (diện tích 236.700 km²) của Trung Quốc.
Theo truyền thuyết, năm 2557-2258 TCN, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu, Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần có lẽ hơn nghìn tuổi, mình rùa hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch (lịch rùa).
Giỗ Tổ Hùng Vương là giỗ vua nào?
Theo dòng thời gian của các truyền thuyết và huyền thoại, 18 đời vua Hùng đã trị vì hơn 2.600 năm. Nếu chia trung bình, tuổi thọ của mỗi vị vua kéo dài khoảng 150 năm. Lý giải điều này, một số học giả cho rằng thực chất 18 vua Hùng không phải là 18 cá nhân cụ thể mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều vua lần lượt trị vì và có chung vương hiệu. Ngay cả con số 18 cũng chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, quy ước cho thấy nhà Hùng đã trải qua nhiều đời, vì 18 là bội số của 9 - một con số thiêng liêng đối với người Việt.
Vậy nhiều vua Hùng như thế mà chỉ có một ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thì đây là ngày giỗ của vị vua nào?
Truyền thuyết kể rằng Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân sau đó kết duyên cùng Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Từ đây ta có thể thấy Hùng Vương là cháu đích tôn của Kinh Dương Vương, là niên hiệu được dùng cho hàng chục triều vua tiếp sau đó. Như vậy, giỗ tổ Hùng Vương ở đây phải là giỗ Tổ Kinh Dương Vương, để tưởng nhớ vị tổ phụ đã khai sinh ra đất nước.
Có một số tài liệu lịch sử ghi lại, ngày giỗ tổ đã có từ cách đây 2.000 năm. Dưới thời Thục Phán An Dương Vương, cột đá thề đã được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh có đề: "Nguyện có đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam được trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương, xin đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng và gìn giữ giang sơn mà Hùng Vương trao lại; nếu thất hẹn, sai thề sẽ bị gió giăng, búa dập".
Các đời vua khác sau này cũng luôn ghi nhớ, khẳng định vai trò các vua Hùng trong việc xây dựng giang sơn. Chính vì thế mà hàng năm, người Việt dành một ngày để tưởng nhớ những người đã xác lập và xây dựng nên đất nước - các vua Hùng nói chung.
Lịch sử 18 đời vua Hùng
Như đã liệt kê ở phần đầu, lịch sử Việt Nam có 18 đời vua Hùng. Mỗi đời vua Hùng đều gắn liền với một bản sắc dân tộc riêng. Trải qua hàng nghìn năm và được lưu lại sử sách.
1. Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 - 2794 TCN
Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王) là một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử, tương truyền ông là Đức thủy tổ của người Việt, mở ra nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Theo Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư” , năm 2879 trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nên nhà nước Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼 tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong số 28 vì sao sáng trên bầu trời). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Các vua Hùng là hậu duệ huyết thống của Kinh Dương Vương.
Tại Lăng Kinh Dương Vương có ghi: Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khỏe phi thường. Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (húy là Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra 100 người con. Con cả là Hùng Quốc Vương.
Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng 1 tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay) và được nhân dân kính cẩn lập miếu thờ.
2. Hùng Hiền Vương (雄賢王) hay Lạc Long Quân: 2793 - 2525 TCN
Mặc dù trong số 18 đời vua Hùng, Kinh Dương Vương là vua đầu tiên của phương Nam, nhưng chính con của ông là Lạc Long Quân Hoặc húy Sùng Lãm mới là vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, là vị vua tu luyện đắc Đạo và vị Thần cổ xưa đầu tiên khai sinh ra dòng giống Bách Việt và định lãnh thổ cho quốc gia Văn Lang thời cổ đại.
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân tên là Nguyễn Lâm, tên huý là Sùng Lãm, tự là Phúc Thọ, thụy là Hùng Hiền Vương, con trai của Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân lên nối ngôi 33 tuổi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương, trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương của quốc gia Văn Lang. Ông trị vì 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 TCN ) đến năm Bính Thìn (2525 TCN).
Nhân duyên trời định đã đưa đến cho ông một người vợ vốn gốc Tiên để khai mở ra dòng giống Bách Việt sau này. Người vợ này chính là Âu Cơ, tổ mẫu của dân tộc ta. Sau khi về làm vợ Lạc Long Quân, Âu Cơ đã sinh ra cho ông những người con trai một cách thần kỳ mà sự tích còn lưu truyền đến ngày nay.
Lạc Long Quân không những là một vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, Ngài còn là một vị thần bảo hộ cho dân tộc Việt Nam từ thời thượng cổ. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Các Thần tích mà Ngài vì dân trừ hại đến nay vẫn được ca tụng lưu truyền. Lạc Long Quân còn dạy cho dân chúng cách ăn ở sinh sống cùng các phong tục tập quán tốt đẹp.
3. Hùng Quốc Vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN
Hùng Quốc Vương là vị vua Hùng thứ III, tên húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 TCN ) đến 2253 TCN.
4. Hùng Diệp Vương (雄曄王)
Hùng Hoa Vương là vị vua Hùng thứ IV, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 TCN ) đến năm Mậu Thìn (1913 TCN ).
5. Hùng Hy Vương (雄犧王)
Hùng Hy Vương (雄犧王) là vị vua Hùng thứ V trong 18 đời vua Hùng, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 TCN) đến Mậu Tý (1713 TCN).
6. Hùng Huy Vương (雄暉王)
Hùng Hồn Vương (雄暉王), húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 TCN), lên ngôi khi 29 tuổi, ở ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TCN).
7. Hùng Chiêu Vương (雄昭王)
Trong số 18 đời vua Hùng, Hùng Chiêu Vương (雄昭王), húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 TCN) là vị vua Hùng thứ VII. Hùng Chiêu Vương lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 TCN).
8. Hùng Vĩ Vương (雄暐王)
Hùng Vỹ Vương (雄暐王), húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TCN).
9. Hùng Định Vương (雄定王)
Hùng Định Vương (雄定王), húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 TCN), lên ngôi khi 45 tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 TCN.
10. Hùng Uy Vương (雄曦王)
Hùng Uy Vương (雄曦王), húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 TCN
11. Hùng Trinh Vương (雄楨王)
Hùng Trinh Vương (雄楨王), húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 TCN), lên ngôi khi 51 tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 TCN).
12. Hùng Vũ Vương (雄武王)
Hùng Vũ Vương (雄武王), húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TCN).
13. Hùng Việt Vương (雄越王)
Hùng Việt Vương (雄越王), húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), lên ngôi khi 23 tuổi, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 TCN) đến Đinh Mùi (854 TCN).
14. Hùng Anh Vương (雄英王)
Hùng Anh Vương (雄英王), húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TCN) lên ngôi khi 42 tuổI, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
15. Hùng Triệu Vương (雄朝王)
Hùng Triệu Vương (雄朝王), húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 TCN) đến năm Canh Thân (661 TCN).
16. Hùng Tạo Vương (雄造王)
Hùng Tạo Vương (雄造王) là Hùng Vương thứ XVI. Tên húy là Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TCN), ở ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TCN) đến năm Nhâm Thìn (569 TCN).
Trong thời kỳ này, các lãnh đạo địa phương đã nổi dậy chống lại vua Hùng. Giai đoạn kết thúc khi nghĩa quân đầu hàng do sự đàn áp của lực lượng Thạch Tướng.
Khoảng một năm 600 trước Công nguyên , phong cách luyện kim độc đáo của trống đồng Đông Sơn đã được phát minh trong thời kỳ vua Hùng Tạo Vương.
Một khía cạnh quan trọng của văn hóa Việt Nam vào thế kỷ thứ sáu TCN là thủy lợi của các cánh đồng lúa thông qua một hệ thống kênh và đê phức tạp. Ruộng được gọi là ruộng Lạc.
17. Hùng Nghị Vương (雄毅王): 568 - 409 TCN
Hùng Nghị Vương (雄毅王), húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 TCN) lên ngôi khi 9 tuổi, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 TCN).
Hùng Nghị Vương là Hùng Vương thứ XVII trong 18 đời vua Hùng. Tương truyền, vua Hùng thứ XVII có một người con nuôi là Mai An Tiêm, ông tổ trồng dưa ở Việt Nam.
Truyền thuyết kể rằng vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý. Có thuyết lại nói rằng Mai An Tiêm là nô bộc, sau được lấy con gái nuôi của Hùng Vương là nàng Ba. An Tiêm thường nói: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" nên bị các quan tấu lên vua. Vua nổi giận bèn đày gia đình An Tiêm ra đảo hoang.
Sau một thời gian vật lộn với cuộc sống hoang dã, An Tiêm phát hiện ra hạt của loài trái mà chim chóc thích ăn. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống. Sau đó hạt ra cây, cây ra quả, gia đình An Tiêm cứ trồng dưa thêm mãi. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh.
Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón.
18. Hùng Duệ Vương (雄睿王): 408 - 258 TCN
Hùng Duệ Vương (雄睿王), sinh năm Canh Thân (421 TCN), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN).
Hùng Duệ Vương là Hùng Vương thứ XVIII (~334 - 258 TCN). Ông là một vị vua truyền thuyết của nước Văn Lang trong lịch sử Việt Nam và là vị Hùng Vương cuối cùng của thời đại vua Hùng. Tương truyền Hùng Vương thứ XVIII có hai con rể là Chử Đồng Tử và Sơn Tinh.
Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ XVIII có ba người con gái là Mỵ nương Tiên Dung, Mỵ nương Ngọc Hoa và Mỵ nương Ngọc Nương.
Mỵ nương cả là Tiên Dung đến tuổi cập kê không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng Chử Xá, nơi có chàng trai Chử Đồng Tử câu cá ngoài bãi. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Vợ chồng Chử Đồng Tử mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Chử Đồng Tử trong một lần đi buôn bán xa gặp một đạo sĩ tên Phật Quang, ở lại học phép thuật. Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Chử Đồng Tử - Tiên Dung bèn bỏ việc buôn bán, chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng. Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn, người dân gọi là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm).
Mỵ nương thứ hai là Ngọc Hoa khi đến tuổi cập kê, vua Hùng bèn mở hội kén rể. Có hai vị thần là Sơn Tinh và Thủy Tinh đến kén rể, đều mang trong mình sức mạnh phi thường. Vua Hùng rất khó xử về việc nên gả con gái cho người nào, nên ông đã ra quyết định ai dâng những lễ vật tới sớm nhất thì sẽ được gả Mị Nương. Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Vì dưới biển nên Thủy Tinh có ít sản vật như nhà vua nói trên. Chỉ có Sơn Tinh là có thể tìm ra những sản vật nộp nhanh cho nhà vua. Khi Sơn Tinh đã trở thành con rể vua Hùng thì Thủy Tinh đùng đùng nổi giận, bèn sai những quân lính cùng mình đi đánh Sơn Tinh. Một cuộc chiến lớn đã xảy ra giữa hai người.Nhưng Thủy Tinh không thể đánh lại được Sơn Tinh đành rút quân về. Từ đó, Thủy Tinh và Sơn Tinh thường xuyên đánh nhau mỗi năm, gây ngập lụt vùng dân sinh sống. Nhưng lần nào Thủy Tinh cũng thua, đành rút quân về.
Chiến tranh Hùng-Thục
Vào thế kỷ III TCN, các bộ lạc Âu Việt ở vùng núi phía Bắc Việt Nam và nam Quảng Tây (khoảng 9 bộ lạc) bắt đầu hình thành nhà nước riêng của người Âu Việt do Thục Chế đứng đầu, đóng đô ở Nam Cương (nay là tỉnh Cao Bằng). Sau khi Thục Chế mất, Thục Phán đã tiến hà