Bát Hải Long Vương Là Ai Và Thần Tích Về Ngài

Thứ 6, 21/6/2024 - 1:43

Mục lục
 
Mục lục

Trên dải đất hình chữ S, nơi con sông Hồng cuộn chảy êm đềm, ẩn mình giữa mênh mông sóng nước là Đền Đồng Bằng – chốn linh thiêng tọa lạc, ghi dấu huyền thoại về Vua Cha Bát Hải Động Đình (Bát Hải Long Vương). Vị thần uy linh, vị Đức Vua Cha thần minh đáng kính của những người con Đạo Mẫu Tứ Phủ, người đã gieo mầm cho nền văn minh lúa nước, chở che cho con Lạc cháu Hồng (Con Rồng cháu tiên) qua bao thăng trầm lịch sử.

Thông qua bài viết này của Xem Số Mệnh , chúng tôi sẽ đem tới cho bạn những lời giải đáp xác đáng nhất cho vô vàn câu hỏi về vị vua cha Bát Hải uy nghiêm này: Vua cha Bát hải là aiĐền thờ vua cha Bát Hải ở đâu? Truyền thuyết về đức vua cha như thế nào?… Hãy hoan hỷ, mở lòng đón nhận thêm những kiến thức Đạo Mẫu mới nhé!

Xem thêm: Thần Tích Về Ngọc Hoàng Thượng Đế trong Đạo Mẫu

 Vua Cha Bát Hải Động Đình là ai?

Dưới tán lá bàng cổ thụ rì rào trong gió, ẩn hiện bóng đền Đồng Bằng uy nghi, linh thiêng – nơi lưu giữ câu chuyện về Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, vị Long Vương uy quyền cai quản cõi nước.

Theo ghi chép cổ xưa tại đền và những truyền thuyết được lưu truyền qua bao thế hệ, Vua Cha Bát Hải Động Đình là con trai của Lạc Long Quân, vị vua anh hùng trong truyền thuyết Lạc Hồng. Vua cha Bát Hải là vị Long Vương tối cao, cai quản Thủy Phủ, đứng đầu hàng vị Tứ Phủ Thánh Đế, uy quyền hơn cả Tam Tòa Thánh Mẫu.

Ngoài ra, ngài còn là vua cha của Hội Đồng Quan Lớn (Ngũ vị Tôn Quan, Lục Phủ Tôn Ông) và Tứ Phủ Thánh Hoàng.

Lịch sử ghi chép rằng Vua Cha Bát Hải Động Đình ngự trị vào thời kỳ đầu Văn Lang, khi dân tộc ta còn theo chế độ Mẫu Hệ. Ngài là vị thần linh hiền hòa, luôn quan tâm đến cuộc sống của con người.

  • Nguồn gốc: Đức Vua Cha Bát Hải là Long Vương đóng cung tại Động Đình Hồ nằm ở vùng đất Thái Bình (ven biển Đông của Việt Nam), bạn cần lưu ý để tránh lầm với Đầm Vân Mộng của Trung Quốc cũng có tên là Động Đình Hồ.
  • Thần Thông: Vua cha Bát Hải là vị thần Long Vương thông thái, sức mạnh vô song cai quản miền Thủy Phủ (miền nước), hô mưa gọi gió, khiển nước, tạo sóng, điều khiển thủy triều… thống lĩnh muôn loài thủy sinh.
  • Công lao của vua cha Bát Hải Động Đình:
    • Ngài đã ban cho con người giống lúa, giúp dân khai khẩn đất hoang, dạy họ trồng lúa để tạo ra nền văn minh lúa nước ngày nay.
    • Vì cai quản miền nước nên Vua Cha Bát Hải đã dạy cho người dân kỹ thuật đánh bắt cá để họ có thêm một nghề mưu sinh.
    • Đức vua cha Bát Hải từng hiển linh giúp dân đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ non sông bờ cõi nước Nam.

Trải qua bao thăng trầm lịch sử, hình ảnh Vua Cha Bát Hải Động Đình vẫn luôn sống mãi trong tâm trí người dân Việt Nam. Ngài là vị thần linh uy quyền, nhân ái, luôn che chở cho dân chúng, mang đến bình an và thịnh vượng cho non sông đất nước.

Đền thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình

Theo như ghi chép thì địa phận Hồ Động Đình mà Ngài ngự tọa hiện nay chính là thuộc địa phận xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Tại đó, người dân từ xa xưa đã lập ra Đền Đồng Bằng để thờ cúng vua cha Bát Hải Động Đình.

Cho tới nay, ngôi đền này đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử mà vẫn sừng sững, là một minh chứng cho lịch sử văn hóa tâm linh của người Việt. Tượng Vua Cha Bát Hải Động Đình uy nghi ngự trên bệ thờ, toát lên vẻ uy nghiêm, linh thiêng. Ngài mặc áo long bào rực rỡ, đầu đội vương quan uy nghi, thể hiện quyền lực phi thường của vị thần cai quản cõi Thủy Phủ.

Đức Vua Cha Bát Hải được lập đề thờ chính thức ở Đền Đồng Bằng, còn có một ngôi đền thờ Ngài nằm trong Phủ Vân Các thuộc quần thể khu di tích Phủ Dầy. Ngoài ra, Vua cha Bát Hải còn có nhiều ban thờ đặt trong các đền thờ khác trên khắp lãnh thổ Việt Nam.

Ngày lễ hội khánh tiệc Đức Vua Cha Bát Hải diễn ra vào ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm.

Hiện nay, đền Đồng Bằng nằm ở ngay giữa hai xã An Quý và An Lễ của huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình. Ngày xưa đền được gọi là Đào Hoa Trang thuộc trấn Sơn Nam, từ thời Lý trở về sau đổi tên thành Trang Đào Hồng.

Hiện nay trong di tích đền Đồng Bằng vẫn còn lưu giữ lại bức đại tự mà vua Lê Thánh Tông ban tặng, bức tự có ghi: “Đế Đức Quảng Vận” có nghĩa là “Thay vua điều hành đất nước”.

Đền Đồng Bằng còn được sắc phong là Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần. Từ cuối thế kỷ 13, đây còn là nơi tưởng nhớ đại vương Trần Quốc Tuấn và các danh tướng của hoàng tộc, những người đã có công lớn ba lần phá quân Nguyên Mông và lập nên 8 trang Đào Đồng xưa.

Dưới thời Tiền Lê, đền được xây dựng và mở rộng quy mô từ 1 tòa miếu nhỏ thành 5 tòa đại bái và 4 ban thờ công đồng khang trang, tráng lệ. Kiến trúc độc đáo cùng giá trị văn hóa, lịch sử to lớn đã đưa Đền Đồng Bằng vào danh sách “Tứ cố cảnh” nổi tiếng của vùng đất Thái Bình, bao gồm Đào Động, Lộng Khê, Tô Đê và A Sào.

Đến nay, Đền Đồng Bằng đã mở rộng ra tới 13 tòa, 66 gian với kiến trúc độc đáo, chạm khắc tinh xảo. Đây không chỉ là điểm đến tâm linh thu hút đông đảo du khách thập phương mà còn là niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu, góp phần bảo tồn bản sắc dân tộc và giáo dục thế hệ trẻ về lòng thành kính, biết ơn đối với vua cha Bát Hải Động Đình.

Truyền thuyết về Vua Cha Bát Hải Động Đình

Nguồn gốc xuất hiện

Những truyền thuyết kể về Vua Cha Bát Hải Động Đình xuất hiện sớm nhất vào thời Vua Hùng Vương Thứ 18. Thời ấy tại vùng đất Thụy Anh, Thái Bình có một người con gái tên Quý Nương.

Nàng được cha mẹ nhặt ở ven sông và đem về nuôi nấng dạy dỗ. Tới năm tròn 18 tuổi, khi nàng Quý Nương ra bờ sông tắm gội thì bị một con rồng vàng mình dài 8 trượng làm phép dâng nước và quấn lấy nàng.

Nàng Quý Nương sau đó hoài thai và mãi tới 13 tháng sau, vào đúng ngày 10 tháng giêng thì sinh ra một bọc lấp lánh tỏa hào quang. Vì quá sợ hãi mà nàng Quý Nương đã đem vất bọc trứng ấy xuống sông và được một người ngư phủ vớt được và rạch ra để xem.

Từ trong bọc trứng bò ra 3 con Hoàng xà, đầu rồng mình rắng, vẩy lấp lánh ánh kim. Một con bò chui vào giếng còn 2 con bơi ra hướng sông Vính Giang. Đêm hôm ấy trời nổi sấm chớp, từ trên trời vọng xuống một tiếng nói uy nghiêm, vang dền: “Ta là con của vua cha Lạc Long Quân, sau này sẽ giúp vua Hùng diệt giặc!”.

Sau đêm ấy, dân làng lập miếu để thờ cúng 3 vị Xà Thần. Giếng nước nơi con Hoàng Xà năm xưa chui vào giờ đây đã trở thành giếng thiêng của đền Đồng Bằng. Tương truyền Thần Xà chui vào ngự dưới giếng chính là hóa thân của vua cha Bát Hải Động Đình.

Sự tích Vua cha Bát Hải đánh giặc ngoại xâm

Mãi tới sau này, vào thời vua Hùng Vương thứ 18, cục diện đất nước rối ren. Vua Hùng vì chọn Sơn Tinh làm con rể, khiến cho Thục Vương tức giận và ngấm ngầm lên kế hoạch để đánh chiếm Lạc Việt. Các nước lân cận như Ai Lao, Vạn Tượng, Chiêm Thành liên minh cùng phương Bắc dẫn thủy quân bao vây 8 cửa biển nhằm xâm chiếm nước ta.

Vì để chống lại thế địch đang dâng cao, vua Hùng triệu gọi Sơn Thánh từ núi Tản Viên trở về kinh đô để đánh đuổi giặc ngoại xâm. Lúc tới nơi, vua thấy Tản Viên Sơn Thánh (Vua cha Nhạc Phủ) vẫn ung dung không tỏ vẻ lo lắng gì thì bèn than phiền trước thế giặc, Sơn Thánh lúc ấy chỉ nói một câu rằng xưa nay 17 đời vua Hùng đều là bậc minh quân vì vậy hạn vận lần này của Lạc Việt đã được ông Trời phái người tài tới phù trợ hộ quốc.

“Họ có ba người, chính là Long Cung Hoàng Thái Tử thác sinh, văn võ song toàn, khí phách hơn người, Trời lại phái thêm nhân tài hạ phàm cùng với chư vị Sơn Thủy Bách Thần linh thiêng. Ngài cứ giao cho Long Cung Hoàng Thái Tử trấn giữ vùng giang môn yếu hải còn thần sẽ trị vùng bộ chiến, yên tâm rằng vài hôm là giặc sẽ tan” – Sơn Tinh.

Vua Hùng sau khi lập đàn cầu trời thì được Thanh Y Tiên Ông tới báo rằng người tài ấy đang ngự tại Hoa Đào Trang, ngay lập tức vua Hùng phái sứ giả tới để cầu viện. Lúc sứ giả tới nơi, người dân đã ngay lập tức nhận ra Thần Nhân đang ngự tại giếng thần của đền Đồng Bằng.

Từ trong giếng, Hoàng Xà xuất hiện, tỏa ra kim quang lóa mắt rồi biến thành một trang nam nhi cao to lực lướng, tuấn tú phi phàm. Ngài chính là Vua cha Bát Hải bây giờ, thời ấy ngài được người dân nhớ ơi và phong hiệu là Vĩnh Công Đại Vương.

Vĩnh Công Đại Vương nói với sứ giả rằng sẽ triệu lệnh gọi hai em trai trở về, mang theo 10 tướng tài, chiêu binh trong mười ngày rồi sẽ đích thân dẫn quân đi đánh tan giặc ở biển Nam, chắc chắn sẽ thắng sau 3 ngày.

Y như lời đã nói, Vĩnh Công Vương sau khi tập hợp được 10 tướng tài sau này là hội đồng quan lớn trong Đạo Mẫu (gồm Ngũ vị Tôn Quan và Lục Phủ Tôn Ông) dẫn theo 28 nội tướng và 1 quân sư chia làm 2 đạo quân tiến về cửa sông Cái và sông Bạch Đằng theo chiến thuật:

  • Vua cha Bát Hải cùng Quan Lớn Đệ Nhất sẽ chặn giặc ở cửa sông Cái.
  • Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cùng quân sư sẽ ứng chiến ở sông Bạch Đằng.
  • Quan Lớn Điều Thất cùng Lục Phủ Tôn Ông sẽ lo đánh giặc ở 6 cửa biển còn lại.

Theo chiến thuật này, chỉ đúng sau 3 ngày như ước định, Vĩnh Công Đại Vương đã đánh cho giặc tan tác không còn một manh giáp và trở về kinh đô nhận sắc phong “Vĩnh Công Nhạc Phủ Thượng Đẳng Thần”

Quá trình xây dựng miền duyên hải

Sau khi đánh đuổi giặc xâm lược, Vĩnh Công Vương (vua cha Bát Hải) xin về quê nhà để chăm sóc mẹ già, chiêu dân, lập ấp, cai quản các cửa biển, dạy dân trồng lúa, đánh bắt thủy sản.

10 vị trong Hội Đồng Quan Lớn, ngoại trừ Quan Lớn Điều Thất về trời ngay sau đó thì các vị còn lại đều theo Vua Cha Bát Hải Động Đình về cai quản các cửa biển:

  • Quan Lớn Đệ Tam ngự tại cửa sông Cái đến phía Bắc Lạc Việt
  • Quan Lớn Đệ Thập ở tại Cửu Chân
  • Quan Lớn Đệ Tứ đi khai khẩn vùng Bắc Sơn Nam.
  • Lục Phủ Tôn Ông thì ở lại Hoa Đào Trang chăm dân…

Vĩnh Công Vương đã dùng bổng lộc mà vua Hùng ban thưởng để phân phát cho dân, dạy dân nghề trồng lúa, đánh bắt cá… Từ đó trở đi mà miền duyên hải trở nên ấm no sung túc.

Một thời gian sau, Vua cha Bát Hải gọi các hương lão trong Hoa Đào Trang tới và căn dặn rằng:

“Ta vốn là Thủy Quốc Thần tiên, nay phải về nơi chốn xưa gốc cũ, nếu nhớ đến ta, nơi ta ở đây là đền, ngày ta đi là ngày giỗ …”

Ngay sau khi để lại lời căn dặn thì trời đất lúc ấy tối sầm lại, sấm chớp dữ dội, mưa như trút nước. Một thoát sau mưa tạnh thì người dân chỉ còn nhìn thấy khăn áo mà Vua cha Bát Hải để lại. Hôm ấy là ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần. Sau khi Vua cha Bát Hải về trời, vua Hùng Duệ Vương vì đau xót vô cùng mà phong hiệu “Trấn Tây An tam kì linh ứng Đại vương

Lời kết

Câu chuyện về Vua Cha Bát Hải Động Đình là một bản hùng ca bất hủ, ca ngợi lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất của dân tộc ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Hình ảnh Vua Cha Bát Hải uy nghi, oai phong, luôn che chở cho con Lạc cháu Hồng sẽ mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn động lực cho mỗi người con Việt Nam. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những ai đã theo dõi bài viết này. Hy vọng những thông tin trên đã giúp bạn hiểu rõ hơn về Vua Cha Bát Hải Động Đình, về lịch sử, truyền thuyết và giá trị văn hóa, tâm linh của đền Đồng Bằng. Nếu có dịp hãy về bản đền để dâng nén hương thơm tỏ lòng thành kính. Hãy cùng nhau gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử tốt đẹp mà ông cha ta đã để lại cho chúng ta. Chúc bạn luôn bình an, hạnh phúc và tràn đầy phúc lành!

Tôi là Xem Số Mệnh, hiện đang là chuyên gia phong thủy, tử vi, tướng số với kinh nghiệm lâu năm và niềm say mê, gắn bó và tìm tòi, nghiên cứu về phong thủy, tử vi, kinh dịch những năm qua. Sẽ mang tới những nội dung mới mẻ, những kiến thức chuyên sâu và những luận giải chất lượng nhất đến với các đọc giả trong và ngoài nước