Lá số tử vi Tứ Hóa Tứ Trợ Tinh gồm những sao nào? Tốt hay xấu?
Trong Tử vi, Tứ Hóa tinh dùng để miêu tả các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của vạn vật trong những khoảng thời gian khác nhau. Mỗi một ngôi sao sẽ có ảnh hưởng đến các tinh tú khác. Để biết lá số tử vi Tứ Hóa ra sao thì hãy tham khảo bài viết dưới đây cùng xem số mệnh.
Tứ Hóa là gì? Gồm các sao nào?
Trước khi tìm hiểu lá số tử vi Tứ Hóa thì hãy cùng hiểu tại sao lại gọi là Tứ Hóa, bộ sao này gồm các sao nào. Dựa vào việc hiểu rõ các sao này sẽ giúp bạn luận đoán được vận mệnh, tương lai chính xác hơn.
Tứ Hóa hay còn gọi là Tứ Trợ Tinh là hóa khí của 14 chính tinh và 4 phụ tinh là Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc. Tứ Hóa có tầm quan trọng rất lớn trong một lá số, chúng quyết định gần như hoàn toàn về một vấn đề trong cuộc sống của bạn nếu cách cục của lá số hợp nhau.
Tứ Hóa là đại biểu của các chính tinh, chúng có sự biến hóa, tương tác lẫn nhau. Vậy nên, bốn sao này có sự ảnh hưởng, tác động từ những tinh tú khác. Tứ Hóa gồm 4 ngôi sao là:
- Hóa Lộc gọi tắt là Lộc
- Hóa Quyền gọi tắt là Quyền
- Hóa Khoa gọi tắt là Khoa
- Hóa Kỵ gọi tắt là Kỵ
Trong đó, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền được xem là Tam cát hóa. Bởi những ý nghĩa cát lành, tốt đẹp mà nó mang lại. Riêng Hóa Kỵ có ý nghĩa u ám hơn, có thể mang tới những điều không tốt trong vận mệnh.
Ý nghĩa của Bộ Tứ Hóa
Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của lá số Tứ Hóa chúng ta cùng tìm hiểu từng sao trong bộ tứ hóa.
Hóa Lộc
sao Hóa Lộc thuộc Thổ, là thần phúc đức, hỉ gặp Lộc Tồn. Nhập miếu ở Dần Thân, tác dụng tốt đẹp rất lớn, lạc hãm ở cung Tý Ngọ Mão Dậu, tác dụng tốt đẹp khá nhỏ. Nhập Mệnh, là người hiền hòa, giỏi xã giao, nhân duyên tốt, tính tình hào phóng, vui vẻ hài hước, ở ngoài được người khác yêu mến, cả đời hưởng phúc. Hỉ nhập Mệnh, Thân, Quan, Tài, Di cung, chủ phú quý, thứ đến là nhập cung Phúc Đức, Điền Trạch.
Bất kể chính tinh nào hóa Lộc, tác dụng thuận lợi tăng gấp nhiều lần, đặc biệt hỉ Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Phá Quân Hóa Lộc. Hóa Lộc thủ Mệnh Thân và quan lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất làm quan to, kinh doanh cũng có thể trở thành phú ông.
Hóa Lộc thủ Thân Mệnh, Quan Lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất là quan lớn, có thể kiếm được nhiều tiền, một đời hay gặp may mắn ngoài dự kiến và sự giúp đỡ của quý nhân.
Hóa Lộc và Lộc Tồn giáp Mệnh cung, là cách “Song Lộc giáp Mệnh”, chủ phú quý.
Mệnh có Hóa Lộc, mà cung ám hợp của Mệnh có Lộc Tồn, “Minh Lộc ám Lộc”, đại cát, là điềm càng tốt đẹp hơn. Mệnh cung có Lộc Tồn, mà cung ám hợp có Hóa Lộc cũng vậy.
Hóa Lộc là tư sản lưu động, mà Lộc Tồn là tư sản cố định, Hóa Lộc hỉ đồng cung hay hội chiếu với Lộc Tồn, Thiên Mã, là cách “Lộc Mã giao trì”, “Song Lộc triều viên”, cực kì tốt đẹp, đại phú hoặc đại quý.
Hóa Lộc ở cung Tý Ngọ cư Thiên Di, chủ người văn chương cái thế, là cách “Đối diện triều thiên”, Thái Dương ở Tý Ngọ Hóa Lộc là hợp cách.
Hóa Lộc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, không chủ tiền tài, có phát cũng chỉ hư hoa hào nhoáng, vì tiền bạc mà vất vả. Hoặc Hóa Lộc hãm ở Tý Ngọ Mão Dậu kiến sát tinh, cũng bất lợi. Sách viết: “Phát bất chủ tài, lộc chủ triền vu nhược địa”.
Bản cung và tam hợp cung có Hóa Lộc, nhưng bị Hóa Kỵ xung phá, là cách “Lộc phùng xung phá”, tốt cũng biến thành xấu, tất gặp tổn thất ngoài dự kiến, trèo cao té đau.
Hóa Lộc tối kỵ hung tinh xung phá, như đồng cung hội chiếu với Dương Đà Hỏa Linh, cách cục mất đi cái dẹp, tốt mã dẻ cùi, cũng không phú quý, hoặc vì phú quý mà rước hung họa.
Hóa Quyền
sao Hóa Quyền thuộc Mộc, là thần nắm quyền sinh sát, nhập miếu ở cung Sửu, không có hãm địa. Nhập Mệnh cung, chủ người tính tình ngoan cố, coi trọng quy tắc đạo đức, hành sự ổn trọng, tính nguyên tắc cao, có năng lực thống trị lãnh đạo rất tốt, kiên cường bất khuất, chuyện gì cũng không dễ dàng chấp nhận thất bại, tính tình kì quái, đi đến đâu cũng được mọi người kính trọng khâm phục, dễ được người khác tán thưởng. Hỉ nhập Mệnh Thân cung, Di cung, Quan Lộc, Tài Bạch cung, chủ có quyền thế. Hỉ hội Vũ Khúc, Cự Môn, tất làm đại sự. Sao này ở Mệnh, chuyên chủ quyền thế.
Nữ mệnh Mệnh có Hóa Quyền, trong ngoài vừa ý, hội cát tinh có thể là bậc quý phu nhân.
Hóa Quyền thủ Thân Mệnh, Khoa Lộc tương phùng, là quan tướng, đại phú đại quý.
Hóa Quyền nhập cung Mệnh, cung Quan Lộc và có Cự Môn hay Vũ Khúc hội chiếu, tất nắm đại quyền, hoặc thống lĩnh trăm ngàn binh lính, võ chức quý hiển.
Hóa Quyền nhập Mệnh Thân, đồng cung với Hóa Khoa, tất văn chương đứng đầu, mọi người đều khâm phục kính nể, có danh tiếng trong giới văn nghệ, học thuật.
Hóa Quyền và Hóa Khoa giáp Mệnh Thân cung, chủ quý.
Hóa Quyền đồng cung hay hội chiếu với Hóa Lộc, tài quan song mỹ, cát tinh nhiều thì luận như trên, nếu hung tinh hội nhiều thì không luận là tốt, chủ hư danh hư lợi, hào nhoáng mà không thực.
Hóa Quyền và Hóa Lộc thủ cung Tài Bạch, cung Phúc Đức, xuất thế vinh hoa.
Hóa Quyền, Hóa Lộc cư cung Nô Bộc, tuy có quan quý cũng vất vả bôn ba.
Hóa Quyền hội Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Đại Hao Thiên Sứ, dễ nghe lời xằng bậy, tất có quan tai giáng chức, hoặc sự nghiệp gặp tổn thất.
Hóa Khoa
sao Hóa Khoa thuộc Thủy, đứng đầu trong thi cử, là thần về văn mặc, hỉ hội Khôi Việt. Nhập miếu vượng ở Sữu Ngọ Thân, hãm ở đất Tuần Không, Triệt Không, Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Nhật Nguyệt hãm địa. Nhập Mệnh Thân cung, chủ người thông minh ham học, khẩu tài lưu loát, có tài hoa về phương diện ngôn ngữ, văn chương, học tập ưu tú, được đánh giá cao, một đời dễ nổi tiếng. Thủ Thân Mệnh, Quyền Lộc tương phùng, thông minh. Nếu gặp ác tinh, cũng là tú tài văn chương, có thể là giáo viên. Hóa Khoa hỉ nhập Mệnh, Thân, Di cung. Cư Tài Bạch cung, Quan Lộc cung cũng tốt.
Nữ mệnh cát tinh củng chiếu, có thể là quý phu nhân, dù Tứ Sát xung phá, cũng chủ phú quý, không có sát tinh hội chiếu thì dịu dàng thanh tú.
Hóa Khoa thủ Mệnh Thân, đồng cung hội chiếu với Hóa Quyền Hóa Lộc, là số đại quý, quan cao vinh hiển.
Tam phương tứ chính Mệnh nếu được Khoa Quyền Lộc hội chiếu, là cách “Khoa Quyền Lộc tam kì”, nếu chính tinh miếu vượng, là quý cách uy chấn thiên hạ.
Hóa Khoa Hóa Quyền giáp Mệnh, là quý cách.
Khoa Quyền đối củng, là người bỗng nhiên nổi tiếng, lưu tên bảng vàng, chủ quý.
Khoa Quyền Lộc Mệnh phùng hội cát tinh, quyền uy của bậc vương tướng chấn áp mọi người. Là cách có cả danh lẫn lộc.
Hóa Khoa thủ Mệnh, ám hợp với Hóa Lộc ở cung lục hợp, là cách “Khoa Minh Ám Lộc”, chủ quý, có thể là quan chức cấp tỉnh.
Hóa Khoa ở Mệnh, Hóa Quyền chiếu đến, vận thi cử rất tốt, đỗ hạng đầu.
Khoa hãm bởi hung thần (hãm do Triệt Không, Kiếp Không, Dương Đà, Nhật Nguyệt hãm), có tư chất nhưng không thành công, hào nhoáng mà không thực, khó có thể phát huy tài năng, cũng không giàu có.
Hóa Khoa đồng thủ Mệnh với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tam phương tứ chính hội một trong Tứ Sát Dương, Đà, Hỏa, Linh thì có tai họa ngục tù.
Hóa Kỵ
sao Hóa Kỵ thuộc Thủy, là sao kế đô, là đa quản chi thần, cũng là một hung tinh, nhập miếu ở Tý Sửu, lạc hãm ở Dần Ngọ Tuất Tỵ Hợi, có thể căn cứ vào sự khác nhau giữa chính tinh trong cung mà có tác dụng khác biệt. Hóa Kỵ nhập mệnh, là người thích suy nghĩ vào ngõ cụt, có xu hướng ngoan cố, cá tính mạnh, thích đố kỵ, hay đa nghi, thích quản chuyện không đâu, quan hệ xã hội không tốt, thường có xung đột với người khác, làm việc khi sắp thành thì lại thất bại.
Hóa Kỵ là sao bất hạnh, thường dẫn đến thất bại, hay gặp các tai họa như không vừa ý toại lòng, thất tình, thất nghiệp, phá sản, xung đột, tranh đấu, bệnh tật, thương tích, làm hỏng, thủ Thân Mệnh, một đời không thuận, hay rước thị phi. Trừ một số trường hợp nhỏ, nhập 12 hai cung thì đâu đâu cũng là hoa, có ý nghĩa phá hoại, duy gặp cát tinh nhập miếu thì có thể giảm bớt cái hung, nếu hội chiếu với hung tinh mà không gặp cát tinh thì không lường trước được tai họa.
Nữ mệnh Hóa Kỵ nhập Mệnh Thân cung, lắm mồm, tính tình lanh lợi. Không hội cát tinh thì một đời vật chất khó khăn, chủ nghèo hèn. Hội hung tinh Hóa Kỵ họa nặng, nhiều cát tinh hội thì tai họa khá nhẹ.
Hóa Kỵ tại Mệnh Thân, di, độ hung cực lớn, chủ một đời không thuận, hay gặp trắc trở thất bại, tuy nhiên người này cũng không phải không có tài năng.
Hóa Kỵ ở Mệnh, người này hay đố kỵ với người hiền tài, bụng dạ nhỏ hẹp. Nếu không, bản thân cũng bị người khác xa lánh, đố kỵ, đấu đá lẫn nhau.
Người thủy nhị cục, Mệnh cung phùng Hóa Kỵ không đáng sợ. Bởi lẽ Hóa Kỵ thuộc thủy, người sinh thủy nhị cục phùng Hóa Kỵ, có thể nhờ tác dụng của sao Hóa Kỵ này mà đạt được thành tựu lớn hay nhỏ, nhưng cái hung của Hóa Kỵ cũng không vì vậy mà tan biến, người này vẫn gặp những điều không thuận lợi mà trên đây nói về Hóa Kỵ.
Thiên Đồng tại cung Tuất tọa Mệnh, người sinh năm Đinh đối cung Cự Môn tại Thìn Hóa Kỵ xung, lại tốt đẹp, chủ đại quý.
Cự Môn tại Thìn tọa Mệnh, người sinh năm Tân hội Văn Xương tại Mệnh hoặc đối cung Hóa Kỵ, lại luận là tốt, là kì cách, chủ đại phú đại quý.
Thái Dương, Thái Âm miếu vượng (Thái Dương ở cung Dần Thìn Tỵ Ngọ cung, Thái Âm ở Dậu Tuất Hợi Tý cung) Hóa Kỵ, không hung, lại luận là phúc, nếu Thái Âm Thái Dương cư lạc hãm hội Hóa Kỵ thì đại hung.
Các sao ở hãm địa hội Hóa Kỵ, cực kỵ.
Liêm Trinh tại hãm địa (tỵ hợi), Hóa Kỵ, càng kỵ, chủ đại hung, cư quan lộc thì có tù ngục kiện tụng.
Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tất gặp tai họa ngoài dự kiến.
Hóa Kỵ đồng thủ Mệnh với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, tượng đại hung, đa phần là số ngục tù, tàn phế, chết thảm.
Hóa Kỵ và Thiên Hình đồng thủ Mệnh, đại hung, là điềm chết ngoài đường, chết không toàn thây, hội Tứ Sát càng nguy hiểm. Gặp ở niên hạn, có chảy máu.
Hóa Kỵ thủ Mệnh, đồng cung với Tử Vi, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Khoa, Quyền, Lộc lại hội Dương Đà Hỏa Linh thì làm việc không dứt khoát, hoạnh phát hoạnh phá, không kiên trì, là số phát tài nhưng không bền.
Hóa Kỵ đồng cung với Sát, Phá, Tham, Liêm, Cự, Vũ, Cơ thủ Mệnh, tam phương tứ chính hội một trong Tứ Sát, có tai nạn tù ngục
Tác động của Tứ Hóa Trong Tử Vi
Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định.
Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.
Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít.
Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc.
Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.
Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.
Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.
Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét.
Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.
Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.
Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc.
Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp, Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.
Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả chú = dgc: Bài này đã dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta biết tác giả bài này không phải là ông Tử Vân. Vậy thì hẳn phải là một người muốn xiển dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm vững cách luận này).
Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.
Tính chất tinh đẩu
Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”) là cốt đại biểu ý ấy.
Tử Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…
Về tính chất sao đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông (dgc: Ý muốn nói mỗi người phù hợp một cách học nhớ khác nhau), nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.
Biến hóa của tứ Hóa
Tác dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.
Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì: Cự hóa Lộc đại biểu vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?
Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.
Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại. Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.
Bảng tứ hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý (dgc: không rõ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187.
Biến hóa của cung vị
Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh, thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự nghiệp (dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.
Vì cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không đúng, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ
Những câu phú Tử Vi về bộ Tứ Hóa
Tam Hoá liên châu phúc tất trùng lai
(có ba Hoá đi liền ba cung mà Mệnh hoặc Thân đóng một trong ba cung đó thì phúc đến miên trường)
Ngọ Thượng Khoa Quyền biện cương nhậm trọng.
(Mệnh tại Ngọ hoặc Quan Lộc tại Ngọ mà khó Khoa Quyền nắm quyền bính nơi biên ải)
Khoa Quyền củng bất như lâm viên
(Khoa Quyền chiếu không bằng đóng tại Mệnh)
Khoa Quyền Lộc Mã tu phòng Không, Kiếp ám xung
(Mệnh Khoa – Quyền – Lộc – Mã hoặc vận hạn Khoa – Quyền – Lộc – Mã mà bị Không, Kiếp xung thì ảnh hưởng tốt của Khoa – Quyền – Lộc – Mã kém đi nhiều).
Khoa – Quyền nhập Mệnh tuy lạc nhàn diệc hữu hiển danh
(Ở Mệnh có Khoa – Quyền tuy Khoa, Quyền ở nhàn cung thì cũng vẫn có địa vị)
Hoá – Đồng văn diệu đề bảng chi vinh
(Hoá Khoa đứng với Khôi – Việt Xương – Khúc học hành thành đạt)
Hoá Khoa tối vi kỳ, vật hướng Thiên Thương nhi ám hối
(Hoá Khoa rất tốt, nhưng kỵ đóng vào cung Nô việc học hành lận đận)
Khoa – Quyền nhân Khôi – Việt dĩ thành công
(Khoa – Quyền cần Khôi – Việt để thành công)
Khoa – Quyền – Lộc hợp phú quý
(Có Khoa – Quyền – Lộc thủ chiếu Mệnh không bị hung sát tinh tất giầu sang)
Khoa Mệnh, Quyền triều đăng dung giáp đệ
(Khoa đóng Mệnh, Quyền xung chiếu dễ đỗ đạt cao)
Khoa danh hãm ư hung thần miêu nhi bất tú
(Hoá Khoa bị Không – Kiếp Kình – Đà thông minh tài cán mà lận đận.
Khoa – Quyền – Lộc vọng, danh dự chiêu chương
(Thủ chiếu có Khoa – Quyền – Lộc nên danh nên giá)
Khoa Minh Lộc ám vị liệt tam đài
(Mệnh Hoá Khoa, cung nhị hợp có Lộc là người chức vị)
Quyền Khốc đồng cung minh danh vu thế
(Mệnh Hoá Quyền đứng cùng Thiên Khốc tại Tý hay Ngọ danh vọng hơn người)
Quyền Lộc đồng cung định tác cơ thương chi nghiệp
(Quyền Lộc tụ vào Mệnh cung, buôn bán làm giàu).
Quyền Lộc thủ Tài, Phúc chi vị sử thế vinh hoa
(Quyền Lộc đóng cung Tài cung Phúc cuộc đời vinh hoa)
Quyền Lộc cát tinh Nô bộc vị, túng nhiên quan quý dã bôn ba
(Quyền Lộc đóng cung Nô, có làm quan cung thăng trầm)
Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ Tài Quan Chi vị
(Quyền Lộc đóng Tài Bạch, Quan Lộc cuộc đời vinh hiển)
Mệnh phùng Hoá Lộc vô hung tinh, tài lộc phong dinh
(Mệnh có Hoá Lộc mà không gặp hung sát tinh tiền tài sung túc)
Lộc Quyền Mệnh Phùng, Kiêm hợp cát oai quyền yểm chúng tướng vương triều.
(Mệnh có Lộc Quyền lại hôi tụ các sao tốt khác thì chức cao quyền trọng)
Hoá Lộc hoàn vi hoả, hưu hướng mộ trung tàng.
(Hoá Lộc là tốt nhưng đóng vào Thìn Tuất Sửu Mùi giảm tốt đi vì Lộc đóng những cung này ví như kho tàng còn chôn trong lòng đất)
Hoá Lộc cư Dần Mão cố thủ tham tài
(Hoá Lộc đóng Dần hay Mão yêu tiền tham của và giữ của kỹ càng)
Hoá Kỵ văn nhân bất nại
(Xương Khúc gặp Hoá Kỵ học giỏi nhưng lận đận công danh).
Hoá Kỵ Điền Tài phản vi gian luận
(Hoá Kỵ đóng cung Tài Bạch, Điền Trạch được xem là tốt.
Mệnh cung Hoá Kỵ gia Thiên Không chung nhật hư tư hiền phụ
(Mệnh hoá Kỵ đứng với Thiên Không lòng không ngớt nghi ngờ vợ hiền).
Hoá Kỵ ngộ Phục Binh ư Thê Thiếp hốt oán hốt thân.
(Cung Phu Thê có Hoá Kỵ, Phục Binh nay giận mai hoà)
Kỵ ngộ Khoa tinh ư Hợi Tý ngôn hành danh thuận.
(Hoá Kỵ gặp Hoá Khoa ở hai cung Hợi Tý là người cẩn thận lời nói).
Hoá Kỵ Tý cung, Khoa lương thủ chiếu quân dân sùng ái
(Mệnh Hoá Kỵ đứng cùng Hoá Khoa hội chiếu Thiên Lương là người đức độ, liêm chính dễ được mến mộ)
Tam Kỳ giao hội mạc ngọ Kỵ Kình giáng lộ thanh vân
(Mệnh hay Thân Khoa Quyền Lộc mà gặp luôn cả Hoá Kỵ Kình Dương thì lại thăng giáng vô thường).
Song Lộc cư nhi ngộ Cư Lương Phú Gia địch quốc.
(Mệnh Thiên Cơ, Thiên Lương có Song Lộc giầu có lớn).
Mệnh vô chính diệu hoan ngộ Tam Không hựu song Lộc Phú Quý Khả kỳ
(Mệnh không chính tinh, được ba không mà có cả hai sao Lộc là số phú quý).
Hoá Lộc Tý Ngọ vị Thiên Di, Phu Từ Văn Chương cái thế
(Thiên Di đóng Tý Ngọ mà có song Lộc là người nổi tiếng về tài học).
Hoá Lộc hoàn vi hảo, nhược cư Mộ địa dị tăng bi.
(Hoá Lộc đóng ở các cung Tứ Mộ kém hay).
Lộc triền ư nhược địa, Mệnh bất chủ tài.
(Hoá Lộc đóng với các chủ tinh trong thế hãm thì hoa nhi bất thực, trong đom đóm ngoài bó đuốc).
Song Lọc lưỡng ngộ, Thái Công vũ lược siêu quần
(Mệnh có song Lộc là người tài giỏi bất cứ vào lãnh vực nào).
Số muộn màng gái trai ôm ẵm
Vì Kỵ Đà len lỏi cung con
Kỵ Đà Thái Túê Thân cung
Khỏi nạn nào được ung dung mấy người
Mệnh Hoá Kỵ, Tật Mộc thần?
Âm nang sa thấp một phân chẳng nhầm
Đà Kỵ Tật Ách trùng gia
Âm hư chứng ấy tất là hiếm con
(Cung Tật Ách có Đà Kỵ)
Cự Kỵ Mộ cung nhi giao Đà Hổ xa mã hạn hành
(Hạn đến Cự Môn Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp luôn cả Hoá Kỵ, Bạch Hồ, Đà La bị tai nạn xe cộ té ngã).
Quyền Lộc trùng phùng, sát tấu hư dự chi long.
(Mệnh có Quyền Lộc mà bị sát tinh kèm thì hữu danh vô thực).
Hoá Quyền ngộ Dương Đà, Không Kiếp, thính sàm di luỵ, quan tai biếm chích.
(Hoá Quyền mà gặp Kình Đà, Không Kiếp bị mất chức vì hay nghe lời nói nịnh hót vu oan giá hoạ).
Hoá Khoa hiềm phùng Triệt Không, Tuần Không, Thiên Không
(Hóa Khoa không nên gặp Tuần Triệt, Thiên Không).
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp u vũ môn
(Khoa Quyền một thủ một xung chiếu, như cá hoá long công danh đằng đạt).
Hoá Kỵ tại Mệnh Thân cung nhất sinh bất thuận.
(Hoá Kỵ đóng Mệnh hay Thân cả đời khó toại chí)
Chư tinh tại miếu, vượng địa Hoá Kỵ bất kỵ
(Chư tinh đóng miếu vượng gặp Hoá Kỵ ở vượng địa Hóa kỵ không tác hại).
Thuỷ Mệnh nhân phùng Hoá Kỵ bất kỵ
(Người mạng Thuỷ mà Hoá Kỵ thủ Mệnh hay hạn gặp Hoá Kỵ không đáng ngại).
Thiên Đồng tại Tuất, Hoá Kỵ Đinh Nhân hoá cát.
(Thiên Đồng đóng Tuất, gặp Hoá Kỵ người tuổi Đinh lại hay)
Cự Môn tại Thìn Hoá Kỵ, Tân Nhân phản vi giai
(Tuổi Tân Cự Môn thủ Mệnh tại Thìn có Hoá Kỵ lại thành hay).
Nhật Nguyệt miếu, Hoá Kỵ vi phúc
(Nhật Nguyệt đắc địa có Hoá Kỵ lại chuyển tốt).
Nhật nguỵêt hãm, Hoá Kỵ đại hung
(Thái Âm, Thái Dương đóng cung hãm mà có Hoá Kỵ rất hung)
Chư tinh tại hãm địa hoá Kỵ, thậm kỵ
(các sao chủ ở hãm địa mà vặp Hoá Kỵ càng kỵ)
Liêm Trinh tại hãm địa, Hoá Kỵ cánh kỵ
(Liêm Trinh ở đất hãm bị Hoá Kỵ càng đáng ngại hơn)